Thứ Ba, 18 tháng 9, 2018

Tín hiệu SOS


TÍN HIỆU SOS

Tín hiệu SOS ra đời cách đây hơn 100 năm. Ngày 1 tháng 7 năm 1908 cộng đồng quốc tế phê chuẩn SOS là tín hiệu cầu cứu cấp bách phát bằng vô tuyến điện báo cho các con tàu trên biển.
Mặc dù ngày nay công nghệ đã phát triển rất xa so với ngày đầu nhưng mã Morse ba chấm, ba gạch ngang, ba chấm (...---...) đã cứu được rất nhiều con tàu bị nạn. Theo thời gian, xung quanh ba chữ cái SOS xuất hiện rất nhiều giả thiết giải mã. Một trong những giả thiết phổ biến nhất không thể hiện đúng bản chất của SOS – “Save our Souls” (Hãy cứu hồn chúng tôi). Ngoài ra còn rất nhiều giả thiết khác như: “Save our Ship”, Send out Succour, Save Our Shelby, Shoot Our Ship, Sinking Our Ship, Survivors On Shore”…
SOS – đơn giản là một trật tự vô tình được chọn vì dễ nhớ và dễ nhận bằng thính giác. Ba chữ viết tắt này là một là kiểu diễn giải (backronym) sau khi tín hiệu đã được thông qua. Những cách diễn giải như vậy đã có trước SOS là CQD. Người ta giải mã ba chữ CQD là: “Lại đây nhanh lên – nguy hiểm!” (Come Quick, Danger!), “Lại đây nhanh lên – chìm!” (Come Quick - Drowning!) vv… Tuy vậy, tín hiệu CQD được diễn giải không chính xác, do vậy mà người ta sau đó đã thay bằng SOS: ba chấm, ba gạch, ba chấm.
Một năm sau khi SOS được phê chuẩn, tín hiệu này đã cứu được con tàu Cunard “SS Slavonia” ở quần đảo Azores rất thành công. Tuy nhiên, sự thừa nhận rộng rãi chỉ từ sau vụ tai nạn của tàu “Titanic” năm 1912. Sau khi “Titanic” đâm vào tảng băng trôi, các sĩ quan điện tín trên tàu đã phát tín hiệu cũ CQD cùng tín hiệu mới SOS nhưng các con tàu trong vùng này đã không đếm xỉa đến cả hai tín hiệu này, cho rằng các sĩ quan điện tín của “Titanic” đùa. Jack Philips – sĩ quan điện tín số một của “Titanic” đã chết đuối cùng 1500 người khác. Chỉ sau thảm họa này người ta mới nhận ra một sự thật cay đắng giúp nhận thức tầm quan trọng của một hệ thống tín hiệu thống nhất.


NHỮNG NHÀ PHÁT MINH KHÔNG ĐƯỢC TRẢ XU NÀO

Trong số những người sống trên thế giới này có những người thường xuyên suy nghĩ, phát minh ra cái gì đấy, họ cố gắng làm cho cuộc sống này ngày một hoàn hảo hơn. Những phát minh lớn hoặc bé, vĩ đại hoặc bình thường: từ cách dán chiếc hộp giấy đến những loại thuốc chữa bách bệnh. Có những phát minh làm đổi thay thế giới và có mặt trong mỗi ngôi nhà trên khắp hành tinh. Những người phát minh ra chúng giàu có, họ được hưởng phần trăm từ việc tiêu thụ sản phẩm và luôn chiếm thứ bậc cao trong bảng xếp hạng tỷ phú của tạp chí “Forbes”. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Hóa ra vẫn còn nhiều phát minh có qui mô và tầm cỡ đã “cho không, biếu không” cho nhân loại: tác giả của những phát minh này đã quên đăng ký thành quả của mình và cuối cùng họ không được trả một xu nào.

Karaoke
Thật khó hình dung được ngành công nghiệp giải trí nếu thiếu karaoke. Không chỉ là các quán karaoke mà còn ở vô khối các nơi khác, kể cả trong mỗi gia đình. Thật khó tin, nhưng người phát minh ra kỹ thuật cũng như loại hình giải trí này không được trả một xu nào.
Hơn 30 năm trước Daisuke Inoue là nhạc công của một ban nhạc vô danh tiếng thường chơi ở các phòng trà. Các nhạc công cảm thấy thương cho khán giả không biết làm gì mỗi khi họ giải lao. Thế là Inoue nghĩ ra máy karaoke, xóa giọng hát, để lại phần nhạc đệm và đề nghị khán giả mua vui mỗi khi các nhạc công nghỉ uống cà phê hay uống trà. Đấy là vào năm 1971. Khán giả các phòng trà cảm thấy thích thú với kiểu hát này, họ cùng nhau hát đồng ca mỗi khi ban nhạc nghỉ giải lao. Thế rồi ban nhạc đã làm 11 chiếc máy hát loại này, mỗi chiếc bán được 100 yen, nghĩa là khoảng 80 cent. Ba năm sau đó karaoke được các công ty đưa vào sản xuất hàng loạt, còn Inoue vẫn không có ý định đăng ký phát minh của mình. Từ năm 1987, khi đĩa compact xuất hiện thì karaoke phát triển với tốc độ chóng mặt. Ngày nay karaoke là gì thì cả thế giới đều biết nhưng tên tuổi nhà phát minh ra nó không mấy ai biết. Daisuke Inoue không được trả xu nào cho phát minh của mình, mặc dù tạp chí Time từng gọi ông là một trong những người có ảnh hưởng nhất của châu Á và năm 2004 ông được trao giải IgNobel vì “đã tạo ra một thiết bị giúp con người biết chịu đựng nhau”. Hiện tại ông sống cùng vợ và hai đứa con, buôn những mặt hàng do ông sáng chế ra: thuốc diệt gián cho máy karaoke và cả thiết bị điện phân nước cho máy giặt, máy rửa chén bát không dùng bột giặt hay hóa chất. Thái độ của ông đối với lễ khải hoàn không thành, đối với sự đánh mất tiền dòng bạc chảy là bàng quan và chịu đựng – đức tính của những người theo trường phái khắc kỷ. Ông nói rằng ông từng hát với chiếc máy do mình phát minh ra chỉ 4 hay 5 lần gì đó trong đời, lần đầu tiên là trong dịp sinh nhật 59 tuổi. “Đôi khi – ông tâm sự – tôi ngắm nhìn chiếc máy hát karaoke hiện đại và nghĩ: “Nó mới tuyệt vời làm sao!” nhưng tôi chẳng có liên hệ gì với nó cả”.

Ông vua “chuột máy tính”
Douglas Engelbart, cũng như Daisuke Inoue, có thể nói rằng phát minh của ông được cả thế giới sử dụng. Ông là nhà sáng chế đã nghĩ ra con chuột – tay lái của máy tính – năm 1964. Con chuột ra đời như một sản phẩm phụ của hệ thống oN-Line System (NLS), dùng để điều khiển các “cửa sổ”. Con chuột đầu tiên trông như cái hộp gỗ phía dưới có hai bánh xe (dọc và ngang) và có một nút bấm. Sau đó Bill English và Jeff Rulifson đã cải tiến hình dáng gần giống với con chuột ngày nay, còn hai bánh xe được thay bằng viên bi tròn. Trước thập niên 1980 con chuột còn là một thứ kỳ dị và chỉ trở thành phổ biến sau khi công ty Apple quyết định trang bị nó cho việc sử dụng hệ điều hành mới. Steve Jobs đặt cho công ty Hovey-Kelley Design thiết kế những con chuột chất lượng cao với giá khoảng 20 – 30 đô la. Sau đó con chuột trở thành nguyên nhân thành công của máy tính Macintosh năm 1984. Sự thành công vang dội của hệ điều hành Windows 95 của Microsoft cũng nhờ vai trò vô cùng quan trọng của con chuột.


Thế còn người phát minh? Chắc là cũng giàu như Bill Gates? Hóa ra không phải thế. Năm 1968 Douglas Engelbart được trả 10 ngàn đô la cho phát minh và ông mua được một ngôi nhà nhỏ ở vùng ngoại ô, còn ngày 1 tháng 12 năm 2000 ông được tặng huân chương công nghệ (The National Medal of Technology) cho toàn bộ phát minh trong lĩnh vực công nghệ thông tin, trong đó có con chuột máy tính. Đã đành, người phát minh ra con chuột máy tính không nghèo khổ như “con chuột” nhưng ông đã không thu về hàng triệu, hàng tỷ đô la mà đáng ra ông có được.

Lúc nào cũng uống Coca-Cola

Có lẽ John Pemberton là nhà phát minh thiếu thực tế nhất. Mùa hè năm 1886 ông thử nghiệm một loại nước xi-rô. Thứ nước ép mà ông làm ra, sau khi uống thử thấy được, ông mang ra nhà thuốc Jacobs đ bán cho người sử dụng. Theo hướng dẫn của Pemberton, nhà thuốc pha thứ nước này với nước lã rồi bán với giá 5 cent một ly. Năm đầu tiên bán được 50 đô la trong khi tiền bỏ ra quảng cáo là 79,96 đô la. Năm sau đó hàng bán chạy hơn nhiều nhưng Pemberton không nhìn ra tiềm năng của mình nên đã bán công thức cho công ty Jacobs. Theo tính toán của con cháu ông thì số tiền thu được là 1989 đô la 36 cent. Sau này, như chúng ta đã biết, thứ nước uống do Pemberton làm ra đã mang lại cho những người sở hữu Coca-Cola số lợi nhuận không thể kể hết.
Hiện nay, Coca-Cola là thương hiệu đắt giá nhất hành tinh, được các chuyên gia đánh giá là khoảng 75 tỷ đô la. Thế nhưng trong số những người trở nên giàu có nhờ phát minh của Pemberton không hề có con cháu hoặc những người bà con của ông.

Súng AK-47

Mikhail Kalashnikov, người sáng chế ra súng tiểu liên AK-47 nổi tiếng cũng không hề kiếm được tiền từ phát minh của mình. “Nhà nước lấy hết tất cả” – nhà sáng chế tâm sự. AK-47 là tên viết tắt của “Automat Kalashnikov mẫu năm 1947”, là loại súng tiểu liên phổ biến nhất trên thế giới vì độ tin cậy cao trong điều kiện chiến đấu không tiêu chuẩn và có giá rẻ được quân đội rất nhiều nước sử dụng, trong đó có Việt Nam. Kể từ năm 1947 nước Nga đã bán hơn 100 triệu khẩu súng AK-47 nhưng người sáng chế không được trả xu nào. Gần đây, Kalashnikov ký hợp đồng với một công ty cho phép công ty này sử dụng thương hiệu “Kalashnikov”, đổi lại ông được hưởng 30 % doanh thu từ các mặt hàng sử dụng thương hiệu này. Các mặt hàng mang thương hiệu “Kalashnikov” là ô dù (không phải súng), vợt tennis, lotion dùng sau khi cạo râu và một số loại nước cocktail.

Kính vạn hoa

Kính vạn hoa do nhà bác học người Scotland David Brewster sáng chế ra năm 1816 khi ông làm thí nghiệm về phân cực ánh sáng. Mẫu thiết kế ban đầu được làm từ một cái ống, bên trong đặt cặp gương một đầu, đầu kia đặt một đĩa kính mờ. Brewster đ ý thấy rằng những chuỗi hạt kính ông đặt giữa cùng với gương tạo nên những hoa văn thật diệu kỳ. Những hoa văn này thay đổi theo góc đặt của gương. Xác suất đ thu được hai hình giống nhau là vô cùng bé. Brewster đặt tên cho nó là “kaleidoscopecó gốc từ tiếng Hy Lạp và có nghĩa là “ngắm những hình ảnh đẹp”. Mặc dù Brewster đã đăng ký bản quyền phát minh kính vạn hoa nhưng sau đó ông chẳng thu được đồng nào từ sản phẩm được sản xuất hàng loạt dùng làm đ chơi này. Bản quyền của ông đăng ký chưa đầy đ theo như nhiều người hiểu. Nhiều nhà doanh nghiệp sau đó đã sản xuất hàng trăm ngàn kính vạn hoa thu lợi nhuận cả núi tiền nhưng Brewster không được trả xu nào.

 

Ghim kẹp giấy

Từ thế kỷ 13 con người đã biết cách xếp các tờ giấy vào nhau rồi xâu một sợi dây qua lỗ ở góc phía bên trên. Năm 1835 một bác sĩ ở New York đã làm ra một chiếc máy sản xuất kim găm dùng cho thợ may và dùng để găm giấy. Còn chiếc ghim kẹp giấy đầu tiên là do nhà sáng chế người Na Uy Johan Vaaler nghĩ ra năm 1899. Johan Vaaler không thu được đồng nào từ phát minh này vì ông không làm tìm được nguồn vốn đầu tư hay nhà sản xuất, là điều mà những người Anh (công ty Gem Manufacturing Ltd) đã làm được vào năm 1900. Thật khó hình dung ra khối lượng giấy tờ văn bản ngày nay mà không có ghim kẹp giấy. Và cũng thật khó hình dung ra số tiền mà con cháu của Johan Vaaler có lẽ đã được hưởng nếu ngày đó ông đã đăng ký được phát minh của mình.

Đĩa CD

Đĩa CD thường được coi là phát minh của người Hà Lan (công ty Philips) và người Nhật (công ty Sony). Phát minh này ra đời trong thập niên 1980, thế kỷ XX. Bản quyền của hai công ty nói trên được nhiều nguồn thừa nhận, kể cả bộ bách khoa toàn thư đại chúng phổ biến khắp thế giới như Wikipedia. Tuy nhiên có một giả thiết khác cũng chính xác không kém: đĩa CD do nhà vật lý Mỹ James Russell phát minh từ thập niên 1960, thế kỷ XX. Ông đã thực hiện một ý tưởng có tính bước ngoặt, nghĩ ra một thiết bị không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa các thành phần của quá trình thu, phát. Đấy chính là đĩa CD đầu tiên.

Năm 1971 Eli Jacobs thành lập công ty Optical Recording và mời Russell cộng tác để làm đĩa video. Ý tưởng chỉ là để ghi các chương trình truyền hình trên đĩa nhựa rồi gửi theo đường bưu điện cho những người cần xem những chương trình truyền hình mà họ yêu thích vào bất cứ lúc nào. Năm 1974 công ty trưng bày máy ghi và đọc đĩa ở triển lãm ở Chicago, năm 1975 đại diện của công ty Philips thăm phòng thí nghiệm của Russell và nói rằng đĩa này chỉ để lưu dữ liệu chứ không dùng cho video hoặc audio được. Hai tháng sau lần thăm phòng thí nghiệm của Russell, công ty Philips giới thiệu đĩa CD – giống hệt như đĩa của Russell. Sau đấy, không chỉ Philips mà cả Sony và một số công ty khác đã phát triển công nghệ của Russell mà không nhắc gì đến tên ông. Russell cũng không đòi hỏi gì, ông chỉ nói rằng có thể là những người ở các nơi khác nhau cùng nảy ra một ý tưởng trong cùng một lúc, nhưng cuối cùng thì họ cũng đã trả tiền.
Quả thật, Philips và Sony có trả tiền bản quyền cho Viện Battelle Memorial, công ty Optical Recording và ông chủ Eli Jacobs. Năm 1992 Time Warner và một số nhà sản xuất khác kiện công ty Optical Recording ra tòa và cuối cùng họ đã phải trả 30 triệu đô la do vi phạm bản quyền vì tòa cho rằng bản quyền là của Optical Recording. Từ tất cả những số tiền trên James Russell không được một xu nào vì cả 26 bản quyền liên quan đến đĩa CD đều là của công ty Optical Recording.


AI BÊN PHẢI, AI VỀ BÊN TRÁI

Cuộc tranh luận về việc tay lái bên phải hay bên trái xem ra vẫn tiếp tục và chưa có hồi kết. Sự khác nhau trong thiết kế của ô tô đã chia thế giới này ra làm hai phần – tay lái bên phải và tay lái bên trái. Đến thời điểm hiện tại có 66 % dân số thế giới đi về bên phải và 34 % đi về bên trái; 28 % tất cả mọi con đường trên thế gian này đi theo bên trái và 72 % - đi theo bên phải. Người Việt Nam chúng ta xưa nay vẫn đi về bên phải nhưng trên thế giới này còn có hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đi về bên trái. Trong số này có Anh, Ai-len, Nhật, Hồng Công, Macao, Singapore, Indonesia, Brunei, Malaysia, Thái Lan, Úc, New Zealand, Ấn Độ, Pakistan, Nam Phi…
Tuy nhiên, truyền thống đi bên phải hay bên trái đường đã có từ rất lâu trước khi ô tô ra đời. Dưới đây chúng ta thử tìm hiểu tại vì đâu mà có sự phân chia như vậy.
Theo một giả thiết thì việc đi về bên phải đường xuất hiện ở châu Âu từ thời Trung cổ, khi mà trên những con đường nhỏ đi qua những làng quê không phải ô tô mà là những ngưỡi cưỡi ngựa. Tất cả họ đều có trang bị vũ khí. Cánh tay bên trái họ giữ tấm khiên để bảo vệ, phòng khi bị tấn công, bởi thế, họ luôn đi về bên phải. Một giả thiết nữa cho rằng khi những con ngựa kéo xe mà chạy lung tung thì điều khiển chúng về bên phải sẽ dễ dàng hơn, bằng cách dùng tay phải – là cánh tay mà đa số thuận hơn tay trái – để kéo dây cương…
Tuy nhiên, một giả thiết khác lại cho rằng đầu tiên ở châu Âu người ta đi theo bên trái. Chính những người cưỡi ngựa thời Đế chế La Mã luôn đi như vậy vì cánh tay phải sẽ chủ động tấn công người cưỡi ngựa đi ngược chiều. Ngoài ra, đi bên trái sẽ thuận tiện hơn vì bao đựng gươm đeo ở bên trái.
Các nhà sử học cho rằng việc đi bên trái lần đầu xuất hiện ở nước Anh. Anh là quốc đảo nên mọi liên hệ với thế giới chỉ thông qua đường biển. Cục giao thông hàng hải nước này qui định tàu thuyền phải đi về bên trái. Sau đấy, qui tắc này được áp dụng cho cả đường bộ và ảnh hưởng sang tất cả các nước là thuộc địa của Anh. Ngày nay nhiều quốc gia vẫn còn giữ truyền thống này.

Một giả thiết nữa cho rằng sở dĩ người ta đi về bên trái là xuất phát từ việc ngày xưa những chiếc xe ngựa kéo do những người cầm roi ở tay bên phải điều khiển. Nếu đi theo đường bên phải thì nhiều khi họ vung roi quất vào người đi bộ cùng chiều trên đường. Bởi thế, người ta phải đi về bên trái…
Sau khi ô tô ra đời, ở châu Âu liên tục có sự thay đổi bên trái qua bên phải và bên phải qua bên trái. Đa số các nước đi về bên phải nhưng Anh, Thụy Điển và một phần của Đế quốc Áo – Hung lại đi về bên trái. Còn Italia thì mỗi thành phố đi theo mỗi kiểu khác nhau. Tiệp Khắc (Séc và Slovakia) trước đấy thuộc Đế quốc Áo – Hung đi bên trái nhưng đến năm 1938 đổi sang phải. Thụy Điển đổi sang phải năm 1967.
Một số quốc gia khác ở Châu Phi là thuộc địa của Anh nhưng lại giáp với các nước là thuộc địa của Pháp đi bên phải nên cũng thay đổi từ bên trái qua bên phải. Hai miền Nam và Bắc Triều Tiên đổi sang bên phải năm 1946, sau khi thoát khỏi ách thống trị của Nhật.

Những sự trùng lặp kỳ lạ - Abraham Lincoln và John Kennedy


NHỮNG SỰ TRÙNG LẶP KỲ LẠ

Abraham Lincoln và John Kennedy

1. Abraham Lincoln được bầu vào Quốc hội năm 1846.
John Kennedy được bầu vào Quốc hội năm 1946.
(Cách nhau 100 năm tròn).

2. Abraham Lincoln trở thành tổng thống Mỹ năm 1860.
John Kennedy trở thành tổng thống Mỹ năm 1960.
(Cách nhau 100 năm tròn).

3. Cả hai đều có phó tổng thống - người kế nhiệm là Johnson.

Andrew Johnson sinh năm 1808.

Lyndon Johnson sinh năm 1908.

(Cách nhau 100 năm tròn).

4. Cả hai đều bị ám sát.
John Wilkes Booth, người bắn Lincoln sinh năm 1839.
Lee Harvey Oswald, người bắn Kennedy sinh năm 1939.
(Cách nhau 100 năm tròn).

5. Lincoln và Kennedy đều gồm 7 chữ cái.

6. Andrew Johnson và Lyndon Johnson đều gồm 13 chữ cái.

7. John Wilkes Booth và Lee Harvey Oswald đều gồm 15 chữ cái.

8. Cả hai đều là người miền Nam. Cả hai đều bị giết chết trước khi bị xử án.

9. Cả hai vị tổng thống đều bị ám sát vào ngày thứ sáu, trước ngày lễ. Lincoln - trước ngày lễ Phục Sinh, Kennedy - trước ngày lễ Tạ Ơn. Cả hai đều bị bắn vào đầu từ phía sau.

10. Lincoln bị bắn chết trong nhà hát “Ford”, Kennedy bị bắn chết trong xe “Lincoln” do hãng Ford chế tạo.

11. Lincoln ngồi ở hàng ghế thứ bảy của nhà hát, Kennedy ngồi trong xe thứ bảy của đoàn xe tổng thống.


12. Một tuần trước khi bị ám sát Lincoln đến thành phố Monroe bang Maryland còn Kennedy - một tuần trước khi bị ám sát có cuộc gặp gỡ với cô người tình Marilyn Monroe.

13. Thư ký của Lincoln là Kennedy từng khuyên ông không nên đến nhà hát. Thư ký của Kennedy là Lincoln cũng từng khuyên không nên đi Dallas.


ĐÔI MẮT CŨNG BIẾT NÓI

Từ xa xưa con người đã liên hệ đôi mắt với sức mạnh và sự huyền bí và gọi “đôi mắt là cửa sổ tâm hồn”. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Empedocles coi ánh mắt nhìn là luồng huyết cầu từ đôi mắt hướng về đối tượng và quay ngược trở lại.
Trong thơ ca Pháp thời Phục hưng ta gặp những sự mô tả ánh nhìn của đôi mắt như phóng tên, ném dao hoặc trút lửa “thiêu đốt tâm hồn và đốt ngọn lửa tình”. Trong thơ sonnet của William Shakespeare ta cũng gặp rất nhiều bài nói về đôi mắt… Người Bali cho rằng trong mắt bên phải của mỗi người có hồn của bố, là biểu tượng của mặt trăng, còn bên trái - hồn của mẹ, biểu tượng của mặt trời.
Phụ nữ bao giờ cũng ý thức được sức hấp dẫn của đôi mắt. Cleopatra - nữ hoàng Ai Cập là một người nổi tiếng giỏi trang điểm đôi mắt. Bà từng biết dùng màu để trang điểm và kẻ lông mi. Phụ nữ Ấn Độ xếp những hạt đá quí xung quanh mắt để gây sự chú ý của đàn ông. Người rừng ở Nam Phi (Bushman) cho rằng ánh mắt của cô gái trong kỳ kinh nguyệt có sức tác động mạnh đến mức có thể làm đàn ông chết đứng tại chỗ và biến người này trở thành một cây gỗ.
Các nhà tâm lý học cho rằng đôi mắt biết nói không kém gì lưỡi. Chúng thể hiện những cảm xúc rất truyền cảm. Các nhà nghiên cứu khẳng định rằng đại văn hào Leo Tolsstoy từng mô tả 85 cách biểu cảm của đôi mắt. Nhiều khi chỉ cần nhìn vào đôi mắt, người ta sẽ biết được trạng thái thực của người này. Nếu như những người đối thoại giàu kinh nghiệm có khả năng kiểm soát và kiềm chế cảm xúc bằng cử chỉ và động tác của thân thể thì trạng thái của con ngươi là không thể kiểm soát được.
Vì những điều nói trên mà ta không ngạc nhiên rằng con mắt có thể phản bội thân chủ, nếu như người này có điều gì đấy muốn giấu đi. Mắt có thể đốt, có thể thiêu trụi nhưng cũng biết âu yếm, biết yêu bằng ánh mắt. Dưới đây là một số cảm xúc được thể hiện bằng ánh mắt:
Ánh mắt nhìn xuống: là sự khiêm tốn ở phụ nữ và là sự hối hận về việc đã làm của trẻ nhỏ.
Mắt mở to: ngạc nhiên, ngây thơ hoặc sợ hãi.
Mí mắt nâng cao: không hài lòng.
Mắt trợn ngược: mệt mỏi, không chịu đựng hoặc là có điều gì lạ lùng, không hiểu được.
Mắt nhìn liếc: có thể là kính trọng, có thể là mong muốn hoặc có thể là lừa dối.
Ánh mắt kích động: mềm mỏng, mi khép hờ và quyến rũ…
Một ánh mắt có thể có nhiều nghĩa, phụ thuộc vào tình huống. Thí dụ sự chớp mắt có thể là sự lo âu, sự dao động, sự không tin tưởng hoặc ngại ngùng. Bởi thế, việc đọc được ánh mắt của người khác phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Khi một người quan tâm đến chuyện gì thì con ngươi của người này mở to, còn khi giận dữ hoặc sầu não thì con ngươi thu lại. Con ngươi mở to đồng nghĩa với sự quyến rũ. Từ hàng nghìn năm trước phụ nữ đã biết dùng cây cà dược (belladonna) để mở to con ngươi. Cleopatra thường xuyên sử dụng bí quyết này. Khổng Tử từng dạy như vậy: “Hãy nhìn vào con ngươi, người ta không thể giấu được điều gì”.
Và bạn hãy nhớ rằng, đôi mắt của bạn cũng biết nói!


NHỮNG NGHỀ NGHIỆP KINH HOÀNG

Khoa học đòi hỏi sự hy sinh. Vì công việc, nhiều nhà khoa học đành mạo hiểm nạp vào cơ thể mình những căn bệnh nguy hiểm để xác định triệu chứng và thử cách chữa trị. Đôi khi những cuộc thử nghiệm kết thúc bằng cái chết của người nghiên cứu. Nhà bác học Marie Curie từng bị ung thư bạch cầu vì tiếp xúc với lượng bức xạ quá cao trong các nghiên cứu của bà. Chàng sinh viên y khoa Stubbins Ffirth khi nghiên cứu bệnh sốt vàng đã uống máu và nước tiểu của bệnh nhân, ăn chất họ nôn ra để xác định cơ chế lây nhiễm.
Nhà phẫu thuật nổi tiếng người Hungari Miklos Nyiszli từng bị bắt vào trại tù Auschwitz mổ tù nhân làm thí nghiệm dưới sự kiểm soát của bác sĩ Đức Josef Mengele – người được mệnh danh là thần chết. Miklos Nyiszli buộc phải làm việc theo mệnh lệnh vì nếu từ chối thì sẽ phải nằm lên bàn mổ làm vật thí nghiệm. Sau ngày được ra tù Miklos Nyiszli không bao giờ cầm đến dao mổ nữa… Nhà vật lý học người Mỹ William Weed đã phỏng vấn hàng nghìn nhà khoa học rồi dựa theo kết quả mà lập ra danh mục những nghề kinh hoàng nhất trong lĩnh vực khoa học.
1. Nghề phát triển những loại nhiên liệu mới. Nhân loại không thể sống thiếu năng lượng thế nhưng việc đi tìm những loại nhiên liệu mới là một quá trình dài lâu và khó nhọc. Thí dụ ở Lawrence Livermore National Laboratory đã 50 năm nay nghiên cứu nhiên liệu hạt nhân mà theo lý thuyết thì có thể dùng để chế tạo động cơ ô tô. Các nhà bác học cho rằng công việc của họ còn phải tiếp tục ít nhất là 20 năm nữa. Họ so sánh mình với những người xây dựng nhà thờ ở thời trung cổ, khi mà những bức tường nhà thờ được xây bởi nhiều thế hệ thợ.
2. Nghề phân tích phân của người mắc bệnh lỵ. Trong thập niên 80 thế kỷ XX, các nhà khoa học của Viện Công nghệ Virginia nghiên cứu vi sinh vật gây ra bệnh lỵ. Để làm việc này họ phải nghiên cứu hàng nghìn mẫu phân của người bệnh. Trong thập niên 90 họ thành lập công ty Techlab chuyên sản xuất các thiết bị phân tích mẫu do các bác sĩ gửi đến. Ba chục nhân viên của công ty này chuyên mở các công-ten-nơ phân để nghiên cứu màu, mùi, độ đậm đặc và tiến hành phân tích vi trùng.

3. Nghề phân tích tinh dịch động vật. Những nghiên cứu như vậy được tiến hành trong phòng thí nghiệm của các môn: sinh vật học, động vật học và di truyền học. Mặc dù phòng thí nghiệm được trang bị đầy đủ các thiết bị nhưng phương pháp đơn giản và hiệu quả nhất là dùng tay xoa bóp để kích thích sự xuất tinh. Sẽ rất vất vả cho những người phải làm việc với những động vật lớn như voi, sư tử, bò.
4. Nghề nghiên cứu muỗi sốt rét. Những nhà sinh vật học và các bác sĩ tìm cách chống lại sốt rét thường là phải trả giá cho kiến thức bằng máu của mình theo nghĩa đen. Họ để trần những phần trên cơ thể mình cho muỗi a-nô-phen. Helge Zieler suốt hai mươi năm nghiên cứu ở Braxin nói rằng trong mỗi phút bà bắt được 17 con muỗi. Theo lý thuyết thì có thể dùng lợn để thay cho người nhưng ở nhiều nơi có các tổ chức bảo vệ động vật phản đối việc này.
5. Nghề nghiên cứu vi sinh vật gây bệnh. Những mẫu vi sinh vật gây bệnh nguy hiểm được đặt trong những ngôi nhà mà các nhà nghiên cứu qua lại thường xuyên. Đặc biệt nguy hiểm khi chúng treo lơ lửng trong không khí.
6. Nghề thử nghiệm không gian kín. Ở NASA (cơ quan hàng không và vũ trụ Mỹ) có những chuyên gia như vậy để kiểm tra các máy móc và tàu vũ trụ. Họ kiểm tra độ kín và tiện nghi trong các con tàu vũ trụ. Để làm được việc này họ phải hàng tuần liền ở trong ca bin và sống như những nhà du hành vũ trụ thực thụ trên quĩ đạo. Các nhà khoa học cũng xếp nghề phi công vũ trụ là một trong những nghề khó chịu nhất.
7. Nghề nghiên cứu tội phạm – xã hội học. Những người nghiên cứu tội phạm thường xuyên phải tiến hành nghiên cứu ở các nhà tù. Các sinh viên ngành này thường đến phỏng vấn tội phạm và không ít khi trở thành nạn nhân của bạo lực trong tù vì không có bảo vệ đi theo họ.
8. Nghề làm sạch xương. Các nhà khoa học hay những người làm nghề nhồi bông thú thường phải làm việc với các bộ xương cần được làm sạch thịt và máu. Để làm việc này thưởng sử dụng phương pháp thủy phân hoặc đưa ra sân cho côn trùng làm việc. Trong cả hai trường hợp thì các nhà khoa học đều phải ngửi mùi rất khó chịu.
9. Nghề truyền bá hệ mét. Ở Mỹ sử dụng hệ thống đo lường truyền thống của Anh, với dặm, foot, poud… chứ không phải mét, cân, lít… Năm 1975 người ta quyết định chuyển dần sang hệ đo lường chung của thế giới nên Viện tiêu chuẩn và công nghệ quốc gia thành lập bộ phận chuyên trách việc này. Công việc của nhân viên bộ phận này cực kỳ phức tạp – phần lớn thời gian họ dùng để trò chuyện với các công chức cũng như đại diện của các công ty, thuyết phục họ về ưu điểm của hệ thống đo lường mét. Thực tế là họ làm việc về quảng cáo và thương mại còn khoa học thì đành quên lãng.

10. Nghề tìm kiếm những loài động vật không còn thấy (Cryptozoology - study of hidden animals). Một số loài chim hay động vật hiện tại có thể coi là đã không còn nhưng các nhà tìm kiếm vẫn chưa thể gạch chúng khỏi danh sách. Bởi thế vẫn có những nhóm các nhà khoa học cố đi tìm những loài chim mà vài chục năm nay đã không còn nhìn thấy. Họ đi tìm hàng ngày và hàng ngày trở về tay không. Những người làm nghề này cũng đi tìm những thứ tưởng chừng như không thể hoặc không có thực, thí dụ như con quái vật huyền thoại ở hồ Loch Ness hay người tuyết vv…
11. Nghề chặt đầu ễnh ương. Ở nhiều khoa y hay khoa sinh ở các trường đại học cũng như ở nhiều phòng thí nghiệm vẫn tiến hành các thí nghiệm với ễnh ương để nghiên cứu phản xạ và những đặc điểm của hệ thần kinh. Những trưởng phòng thí nghiệm như vậy thường xuyên phải giết hàng nghìn con ễnh ương.
12. Nghề thống kê ngư học. Những người làm nghề này thường xuyên phải đếm cá. Công việc này đặc biệt vất vả trong mùa đẻ trứng: hàng chục nghìn con cá trên sông chạy trước mắt. Người làm việc này cần đếm và xác định các loại cá. Khi kết thúc mùa đẻ trứng những người làm nghề này phải rất lâu mới quên được cảnh những đàn cá chạy trước mắt.
13. Nghề ngửi mùi. Những người làm nghề ngửi mùi sản phẩm làm việc ở các công ty dược, thực phẩm và mỹ phẩm. Đôi khi họ phải chịu cảnh không tắm trong nhiều tuần để kiểm tra mẫu nước hoa hoặc chất khử mùi mới có tác dụng đến đâu. Bác sĩ Michael Levitt khi phân tích chất khí thải của con người sau bữa ăn đã chế tạo một thiết bị đặc biệt – bao nhựa gắn vào hậu môn dùng để sưu tập các khí thải. Michael Levitt cho những người tình nguyện ăn các loại thức ăn khác nhau, sau đó thu khí thải vào các bao rồi dùng mũi của mình để ngửi. Ông khẳng định rằng việc phân tích thành phần khí thải trong tương lai cho phép chẩn đoán nhiều loại bệnh đường ruột và dạ dày.



THÀNH CÔNG CỦA ĐÀN ÔNG TRONG CUỘC ĐỜI THEO TUỔI TÁC

Thành công lúc 5 tuổi – ngủ dậy giường vẫn khô.
Thành công lúc 17 tuổi – biết cách qua đêm với phụ nữ.
Thành công lúc 25 tuổi – cưới được một người vợ tốt.
Thành công lúc 35 tuổi – sự nghiệp và gia đình.
Thành công lúc 45 tuổi – sự nghiệp và gia đình.
Thành công lúc 55 tuổi – cưới được một người vợ tốt.
Thành công lúc 65 tuổi – biết cách qua đêm với phụ nữ.
Thành công lúc 85 tuổi – ngủ dậy giường vẫn khô.


NHỮNG PHÁT MINH LÀM KHOẢNG CÁCH GẦN LẠI

Chỉ trong 100 năm gần đây cuộc sống có những thay đổi mạnh mẽ hơn tất cả quãng thời gian trước đó cộng lại. Nhưng khoa học và công nghệ càng hoàn hảo hơn thì quan hệ của con người lại càng lắm xung đột hơn. Thế kỷ XX là thế kỷ khắc nghiệt và đẫm máu nhất trong lịch sử loài người.
Chúng ta đã đạt đến những thứ mà các nhà văn viễn tưởng chỉ có mơ ước. Nhưng cuối cùng chúng ta cũng không trở thành những người hạnh phúc mà thế giới vẫn chuyển động theo qui luật nào đấy của mình. Càng đi xa cuộc sống càng tỏ ra nhiều sự nguy hiểm. Số người tự tử và số người người nghiện thuốc phiện ngày một tăng, suy thoái kinh tế và biến đổi khí hậu, khủng bố và chiến tranh đang đe dọa hành tinh này.
Còn chúng ta vẫn thường xuyên tự hỏi về ý nghĩa của cuộc sống. Những phát minh dưới đây rút ngắn khoảng cách, biến thế giới rộng lớn này thành một ngôi làng nhỏ. Kỹ thuật làm cho con người xích lại gần nhau về mặt vật chất nhưng liệu chúng ta có thể xích lại gần nhau về mặt tâm hồn? Dưới đây là những phát minh đáng kể nhất trong lịch sử phát triển của loài người, 10 phát minh đã làm thay đổi thế giới này.

1. Chữ viết
Từ buổi đầu loài người đã tìm cách trao đổi thông tin. Người thượng cổ đã biết dùng cành cây hay khói… để làm tín hiệu. Nhưng bước đột phá trong sự phát triển của loài người là chữ viết xuất hiện khoảng 4000 năm trước Công nguyên.
2. In sách
Công nghệ in sách đáp ứng một nhu cầu cấp bách của loài người, nó chứng tỏ ngay từ những năm đầu tiên sau phát minh của Gutenberg vào giữa thế kỷ XV. Những cuốn sách làm cho việc trao đổi thông tin dễ dàng hơn nhiều và chính điều này đã bật đèn xanh cho thời đại Phục Hưng.
3. Điện tín
Đến tận giữa thế kỷ XIX con người biết được những sự kiện xảy ra ở các nước khác sau đó hàng tuần, thậm chí sau hàng tháng. Phương tiện trao đổi thông tin duy nhất giữa các châu lục là những con tàu bưu điện. Bởi thế việc trao đổi thông tin nhanh chóng là một nhu cầu cực kỳ cấp thiết. Máy điện tín là phát minh xuất sắc nhất của thời này. Năm 1832 trong chuyến tàu du lịch sang nước Mỹ, Samuel Morse đã phát minh ra nó.

4. Điện thoại
Cuối thế kỷ XIX loài người tiếp tục tìm kiếm những phương pháp mới trong việc xích lại gần nhau. Cần những phương tiện hoàn hảo hơn máy điện tín, thứ mà ai cũng dùng được. Sau nhiều năm tìm tòi và nghiên cứu, ngày 10 tháng 3 năm 1876 Alexander Bell đã nói với người cộng sự của mình qua điện thoại: “Mr. Watson, anh làm ơn ghé đến chỗ tôi, tôi có việc cần trao đổi với anh”. Bell đăng ký phát minh của mình và đến tháng 8 năm này đã có 800 chiếc máy điện thoại hoạt động.
5. Chụp ảnh và chiếu bóng
Năm 1826 Joseph Nicéphore Niépce qua buồng kín chiếu được hình ảnh khung cửa sổ phòng làm việc lên một tấm sắt. Năm 1837 Louis Jacques Mandé Daguerre lần đầu tiên làm được một tấm ảnh có chất lượng tương đối tốt. Năm 1891 Thomas Edison chế tạo được máy chiếu Kinetoscope – chiếu những hình ảnh liên tục thành hình chuyển động. Phát minh này tạo cảm hứng và điều kiện cho anh em nhà Lumière bắt tay làm phim. Tháng 12 năm 1895 lần đầu tiên dân Paris được xem những thước phim đầu tiên.
6. Truyền thanh
Các nhà sáng chế không chỉ dừng lại ở việc truyền tải thông tin bằng dây dẫn. Năm 1895 Aleksandr Popop trình diễn một chiếc máy truyền điện báo không cần dây dẫn. Năm 1899 nhà phát minh Guglielmo Marconi truyền được tín hiệu phát thanh qua eo biển Măng-sơ và năm 1901 – qua Đại tây dương. Năm 1904 nhà bác học John Ambrose Fleming chế tạo ra đi-ốt chân không để hoàn thiện một bước máy thu thanh. Năm 1913 Alexander Meissner chế tạo chiếc máy phát sóng vô thuyến đầu tiên...
7. Truyền hình
Một trong những phát minh tuyệt vời nhất của thế kỷ XX là truyền hình. Cũng như những ngành kỹ thuật phức tạp khác, truyền hình được hình thành và phát triển với sự góp sức của rất nhiều nhà phát minh và sáng chế chứ không chỉ là phát minh của một người hoặc một lần. Nửa cuối thế kỷ XX truyền hình phát triển mạnh mẽ và khắp nơi. Vai trò của truyền hình được Liên Hiệp Quốc đánh giá cao bằng Ngày truyền hình Thế giới (World Television Day) 21 tháng 11 hằng năm.
8. Máy vi tính (máy điện toán)
Sự xuất hiện của máy vi tính đã tổng kết những phát minh, sáng chế của thế kỷ XX. Máy vi tính trở thành phương tiện chủ yếu để xử lý, bảo quản thông tin và có khả năng truyền tải chúng đến những khoảng cách bất kỳ. Có một điều khác quan trong hơn – máy vi tính mở ra nhiều khả năng mới cho sự sáng tạo trong mọi lĩnh vực.
9. Điện thoại di động
Tháng 4 năm 1973 kỹ sư trưởng của hãng Motorola Martin Cooper thực hiện một ước mơ của loài người là gọi từ máy điện thoại di động. Tuy vậy, cơ sở thương mại của loại điện thoại này chỉ đến năm 1983. Kể từ đó, loại điện thoại này phát triển với một tốc độ chóng mặt. Hiện tại đã có khoảng hơn một nửa dân số thế giới sử dụng điện thoại di động.
10. Internet
 Năm 1989 Tim Berners-Lee đưa ra một dự án mà ngày nay trở thành nổi tiếng với tên gọi là mạng toàn cầu (World Wide Web), kết nối khoảng ¼ dân số thế giới (1,5 tỉ người). Internet là một cuộc cách mạng làm thay đổi thế giới, là phát minh mang tính thời đại. Internet truyền thông tin “với tốc độ âm thanh”, biến thế giới rộng lớn này thành một ngôi làng nhỏ. Điều quan trọng nhất là Internet làm cho khoảng cách gần lại – phía sau màn hình là một thế giới ảo, nơi mà tất cả mọi khả năng của con người không bị hạn chế bởi thời gian và không gian.

Những thảm họa lạ lùng trong lịch sử


NHỮNG THẢM HỌA LẠ LÙNG NHẤT TRONG LỊCH SỬ

Những thảm họa trong lịch sử loài người thì có vô vàn. Về mức độ có nhiều thảm họa còn lớn hơn nhiều nhưng thống kê dưới đây xét về sự lạ lùng của nó. Mặt khác, có thể những thảm họa dưới đây gợi ra cho chúng ta những suy ngẫm về việc phát triển một cách ồ ạt và môi trường bị xâm hại nặng như ở Việt Nam chúng ta hiện nay.

Rắn tấn công thành phố Saint-Pierre
Núi lửa Mount Pelee (núi trọc) ở thành phố Saint-Pierre, đảo Martinique (Trung Mỹ) đã từ lâu không hoạt động nên không ai để đến những dấu hiệu lạ thường vào tháng 4 năm 1902.
Sang đầu tháng 5 mưa bụi liên tục, trong không khí có mùi tanh lợm của lưu huỳnh. Hàng trăm con rắn độc từ trong hang núi bò vào các khu phố của những người da đen lai da trắng. Những con rắn độc dài 6 foot cắn chết 50 người và hàng loạt súc vật. Nhưng tất cả chỉ mới bắt đầu. Ngày 5 tháng 5 từ đất phọt ra một dòng đất bùn rồi phun xuống biển tạo thành sóng thần làm hàng trăm người chết. Ba ngày sau, mồng 8 thàng 5, núi lửa phun thẳng xuống thành phố. Trong vòng 3 phút cả thành phố bị thiêu rụi. Trong số 30.000 dân chỉ 2 người sống sót.

Hoảng loạn ở nhà thờ Shiloh Baptist Church
Ngày 19 thàng 9 năm 1902, 2000 người theo đạo, đa số là người da đen đến nhà thờ Shiloh Baptist Church ở Birmingham, bang Alabama, Mỹ để nghe nhà lãnh đạo hội người Mỹ gốc châu Phi Booker T. Washington phát biểu. Cửa ra vào của nhà thờ này đi qua bục cao để hát Thánh ca bằng một cầu thang gạch. Sau lời phát biểu của Booker T. Washington người ta bắt đầu cãi nhau về chuyện tranh giành chỗ ngồi và từ “fight” (đánh lộn) họ nghe thành từ “fire” (cháy). Như một hiệu lệnh, tất cả con chiên rời chỗ của mình lao về phía cầu thang. Những người đi đầu bị người đi sau thúc làm cho họ rơi xuống rồi những người khác đổ nhào lên làm thành một đống cao đến 10 foot. Đám đông hỗn loạn cứ ào lên, đạp lên đống người nghẹt thở nằm dưới đất. Thực ra không hề có hỏa hoạn, cũng không hề có đánh nhau nhưng 115 người bị đè chết.

Mật đường ngập đường phố Boston
Ngày 15 tháng 1 năm 1919 những người dân ở một quận phía bắc thành phố Boston – đa số là người Ireland và Italia nhập cư đổ ra phố trong một ngày nắng đẹp lạ thường. Bỗng nhiên, người ta nghe một tiếng rầm. Bình xi-téc bằng gang của công ty Purity Distilling bị thủng và một con sóng lớn bằng mật đường bao trùm lên đường phố Commercial Street rồi đổ về phía bến cảng. Cả người đi đường lẫn xe ngựa kéo đều không chạy khỏi. Hai triệu gallon mật đường dùng để sản xuất rượu Rum trùm lên cả khu phố - 21 người chết vì ngạt thở, 150 người khác bị thương. Dòng mật đường làm đổ cầu vượt xe lửa và nhiều ngôi nhà. Những con ngựa bị ngạt thở và dính chân nhảy cuống cuồng làm cho cảnh sát phải dùng súng bắn hạ. Những người dân ở các nơi chạy đến xem khi trở về kéo thứ chất nhờn đi khắp thành phố. Một tuần sau đó thành phố Boston mới hết mùi mật đường, còn cảng Boston bị nhuốm một màu nâu đến tận mùa hè năm đó.

Nổ bể chứa gas ở Pittsburgh
Bể chứa gas – thời đấy là lớn nhất thế giới – đặt ở trung tâm khu công nghiệp của thành phố Pittsburgh, bang Pennsylvania (Mỹ) bị rò rỉ. Buổi sáng ngày 14 tháng 11 năm 1927 một tốp thợ đi tìm chỗ rỉ gas để hàn lại. Họ sử dụng đèn hàn với ngọn lửa mở. Khoảng 10 giờ sáng người ta tìm ra chỗ này – bể gas đựng 5 triệu foot khối khí thiên nhiên bay lên trời như một quả khinh khí cầu lớn rồi nổ tung. Những mảnh kim loại có trọng lượng cả trăm foot bay ra tứ phía. Áp lực không khí và lửa phát quang cả một dặm vuông – 28 người chết và hàng trăm người bị thương.

Biểu diễn của nhân viên cứu hỏa ở Gillingham
Hàng năm những nhân viên cứu hỏa ở Gillingham, Anh dùng gỗ và vải buồm làm những «ngôi nhà» để biểu diễn cứu hỏa trong ngày lễ ở công viên thành phố. Theo lệ, người ta chọn các cậu bé khỏe mạnh ở địa phương để cùng tham gia. Ngày 11 tháng 7 năm 1929 có 9 cậu bé tuổi từ 11 đến 14 cùng 6 nhân viên cứu hỏa ăn mặc quần áo lễ hội, có vẻ như đến dự một đám cưới đi lên tầng 3 của «ngôi nhà» trên. Theo kế hoạch, những nhân viên cứu hỏa phía dưới cho nổ quả mìn khói ở tầng 1, rồi tiến hành giải thoát những người dự đám cưới bằng dây và thang, sau đó đốt cháy ngôi nhà để biểu diễn những vòi phun nước. Tuy nhiên, do nhầm lẫn, thay vì quả mìn khói người ta cho mìn lửa đốt nhà đầu tiên. Hàng nghìn khán giả nghĩ rằng những người bị cháy mà họ nhìn thấy là những con búp bê nên đã reo hò và vỗ tay không ngớt trong khi những nhân viên cứu hỏa dưới đất dùng vòi phun nước dập lửa hiểu rằng một thảm họa khủng khiếp đã xảy ra. Cả 15 người ở trong «ngôi nhà» đều chết cháy.

Máy bay đâm vào tòa tháp Empire State Building
Empire State Building là tòa nhà cao nhất thế giới trong 42 năm (1931 – 1972). Sau vụ khủng bố 11-9 nó lại là tòa nhà cao nhất New York.
Buổi sáng thứ 7 ngày 18 tháng 7 năm 1945 một cựu phi công Mỹ lái một máy bay ném bom hạng nhẹ B-25 bay từ thị trấn Bedford, bang Massachusetts về New York. Trong buồng lái có thêm một lái phụ và một thủy thủ đi nhờ về New York. Sương mù nặng làm cho tầm nhìn bị hạn chế. Một giờ sau, những người dân trên những đường phố trung tâm Mahattan nghe tiếng máy bay rồi kinh hoàng nhìn thấy từ đám mây một chiếc phản lực lao vào tòa nhà Empire State Building. Mảnh vỡ của máy bay và tòa nhà rơi ào ào như mưa đá, còn ở tầng 78 có một lỗ thủng khổng lồ. Một động cơ của máy bay xuyên qua 7 bức tường rồi lăn sang phía bên kia của ngôi nhà. Một động cơ khác như viên đạn bay theo khoang thang máy, cắt đứt dây cáp rồi đè thang máy xuống tầng hầm. Khi bình đựng xăng của máy bay nổ tung, ngọn lửa bao trùm lên 6 tầng, xăng nóng theo những bức tường chảy xuống. Rất may mắn là vào ngày hôm đó chỉ một số ít văn phòng làm việc và chỉ có 11 người bị chết cùng với 3 người trên máy bay.

Thảm họa ở sông Tunguska
Ngày 30 tháng 6 năm 1907 một vụ nổ cực lớn xảy ra ở vùng sông Tunguska, miền Krasnayasky, Nga.
Theo giả thuyết, vụ nổ này là do thiên thạch rơi hoặc là do mảnh vỡ của sao chổi. Theo tính tóan của các nhà khoa học, công suất của vụ nổ này khoảng từ 10 đến 20 megaton, tức là gấp 1000 lần quả bom nguyên tử ném xuống Hirosima và tương đương với siêu bom Castle Bravo từng được Mỹ thử nghiệm. Vụ nổ này làm đổ 80 triệu cây trên một vùng đất rộng hơn 2150 km vuông. Dấu vết của vụ nổ này, cho đến nay vẫn còn chụp được từ vệ tinh.

Vụ nổ dây chuyền ở Texas

Ngày 15 tháng 4 năm 1947 con tàu chở hàng Grandcamp của Pháp cập cảng Texas. Trên tàu có 1.400 tấn phân khoáng từ kali nitrat. Đến giữa đêm trong khoang tàu bùng lên một đám cháy. Đến sáng, ban quản lí cảng nhìn thấy đám khói đen dày đặc đã vô cùng lo lắng vì nhà máy hóa chất Monsanto chỉ cách đó chưa đầy 700 foot (hơn 200 m). Trong khi người ta đang đứng trên cầu tàu nhìn đám cháy và những con tàu kéo chuẩn bị móc dây để kéo tàu Grandcamp ra biển thì một quả cầu lửa bùng lên bao trùm tất cả. Quả cầu lửa này nổ tung ra bốn phía và chỉ mấy phút sau đó cả nhà máy hóa chất cũng nổ tung làm chết hàng trăm công nhân và cả những người quan sát còn sống sót sau tiếng nổ thứ nhất. Ngọn lửa bao trùm cả dãy cầu tàu, cũng may là bể chứa khi butan không bị nổ. Tối hôm đó lại thêm một chiếc tàu khác chở diêm sinh cũng nổ tung và những tiếng nổ dây chuyền lặp lại. Hơn 500 người chết và 1.000 người bị thương nặng.

Vụ ngộ độc hàng loạt ở Basra
Tháng 9 năm 1971 một con tàu chở hạt giống cập cảng Basra, I-rắc. 90.000 tấn lúa mạch Mỹ và lúa mỳ Mê-hi-cô được ngâm thủy ngân với mục đích bảo vệ hạt giống và được nhuộm màu hồng với mục đích cảnh báo sự nguy hiểm. Trên các bao bì đều có ghi những lời cảnh báo nhưng chỉ bằng tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Trước khi những bao hạt giống đến tay các nông dân ở trang trại thì đã bị ăn cắp ngay từ cầu tàu rồi đem bán cho những người dân đang bị nạn đói hành hạ làm đồ ăn. Chính phủ I-rắc, hoặc là do vô trách nhiệm đến mức tội ác, hoặc là do nhận đút lót, đã im lặng trước việc này. Nhưng hai năm sau đó, một nhà báo Mỹ đã điều tra và chỉ ra rằng có 6.530 trường hợp bị ngộ độc thủy ngân liên quan đến vụ việc nói trên. Nhà đương cục chỉ thừa nhận có 459 người bị chết. Trên thực tế là hơn 6.000 người bị chết và 100.000 người khác bị mù, điếc và bại liệt dây thần kinh não.

Những con voi điên ở rừng Chandak
Đầu năm 1972 khu rừng Chandak, Ấn Độ bị hạn hán kéo dài. Những con voi rừng bình thường không gây ra chuyện gì bỗng phát điên lên vì nóng và thiếu nước. Dân chúng đã báo cho chính quyền sở tại biết rằng họ không dám đi làm rẫy vì sợ voi. Ngày mồng 10 tháng 6, những đàn voi giận dữ tấn công 5 ngôi làng, phá cho tan hoang và 24 người dân bị chết.


NHỮNG NHẬN ĐỊNH NHẦM LẪN TRONG QUÁ KHỨ

Chúng ta biết rằng có những lời tiên tri sau hàng ngàn năm mới chứng minh được. Thiên tài Leonardo da Vinci từng thiết kế bản vẽ của máy bay, tàu thủy trước khi chúng ra đời hàng trăm năm. Có những nhà văn tưởng tượng ra những điều mà không biết đến bao giờ chúng mới trở thành hiện thực. Lại có những nhận định mà chỉ mới sau mấy năm đã tỏ ra sai lầm. Có một lĩnh vực phát triển với tốc độ chóng mặt mà ngay cả những người trong cuộc cũng không ngờ đến – đó là lĩnh vực điện tử và tin học. Những nhầm lẫn đáng kể nhất thuộc về lĩnh vực này.
- Trong tương lai, máy tính sẽ nặng không quá một tấn rưỡi. (Popular Mechanics, 1949).
- Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ tìm ra cầu để bán được 5 máy tính. (Thomas Watson – giám đốc hãng IBM, năm 1943).
- Tôi đã đi khắp đất nước này, đã trò chuyện với những người thông minh nhất và xin cam đoan với quí vị rằng xử lí dữ liệu là trò nhố nhăng mà sau một năm sẽ hết mốt. (Biên tập viên nhà xuất bản Prentice Hall, năm 1957).
- Liệu có ích lợi gì trong cái này? (Vấn đề tranh luận về việc chế tạo Microchip ở Advanced Computing Systems Division of IBM, năm 1968).
- Không ai cần máy tính trong nhà mình, chẳng để làm gì. (Ken Olson – người sáng lập và là chủ tịch tập đoàn Digital Equipment Corp., năm 1977).
- 640 kb là quá đủ cho mỗi người. (Bill Gates, năm 1981).
- 100 triệu đô la là giá quá cao cho Microsoft. (IBM, năm 1982).
- Một thiết bị như máy điện thoại có quá nhiều nhược điểm để có thể coi nó là phương tiện liên lạc. (Lời phát biểu trong cuộc họp ở công ty Western Union в 1876).
- Cái thùng biết hát không dây này không thể có một giá trị thương mại nào. Ai sẽ trả tiền cho việc gửi thông tin đến một cá nhân nào đấy? (Các bạn hàng của Hội David Sarnoff trả lời đề nghị đầu tư vào dự án thành lập đài phát thanh, năm 1920).
- Ý tưởng rất hay, trình bày rất tuyệt. Nhưng để ý tưởng trở thành hiện thực, nó cần có lẽ phải. (Tập thể giáo sư Đại học Yale trả lời đề nghị của Fred Smith về tổ chức dịch vụ giao tận nhà. Fred Smith trở thành người sáng lập hãng chuyển phát nhanh Federal Express Corp.)
- Thôi đi các ngài ạ, có ai lại thèm quan tâm đến những lời thoại của các diễn viên? (Phản ứng của H.M. Warner - Warner Brothers về việc lồng tiếng vào phim, năm 1927).
- Chúng tôi không thích âm thanh của họ và, nói chung, ghi-ta là ngày hôm qua. (Decca Recording Co., từ chối ghi âm Album của nhóm Beatles, năm 1962).

- Máy bay, với trọng lượng nặng hơn không khí là điều không thể! (Lord Kelvin – Chủ tịch Hội Hoàng gia – Royal Society, năm 1895).
- Giáo sư Goddard không hiểu quan hệ giữa hành động và phản ứng, ông không biết rằng cần những điều kiện phù hợp hơn chân không cho phản ứng. Có vẻ như giáo sư rất thiếu những kiến thức cơ bản được dạy ở nhà trường. (Bài xã luận của báo New York Times về đề tài chế tạo tên lửa của giáo sư Robert H. Goddard, năm 1921).
- Khoan đất để tìm dầu? Anh nói rằng đi khoan đất để mà tìm dầu? Anh có điên không. (Trả lời dự án của Edwid Drak, năm 1859).
- Máy bay là thứ đồ chơi hay nhưng không có giá trị gì về mặt quân sự. (Marechal Ferdinand Foch, giáo sư của Ecole Superieure de Guerre).
- Tất cả những gì có thể sáng chế thì người ta đã sáng chế rồi. (Charles H. Duell, cơ quan cấp bằng sáng chế của Mỹ, năm 1899).
- Lí thuyết của Louis Pasteur về vi sinh vật là sự tưởng tượng hài hước. (Pierre Pache – giáo sư tâm lí học Đại học Toulouse, năm 1872).
- Bụng, ngực và não mãi mãi đóng cửa đối với sự can thiệp của các nhà phẫu thuật khôn ngoan và nhân đạo. (Sir John Eric Ericksen – bác sĩ phẫu thuật trưởng của hoàng hậu Victoria, năm 1873).