Thứ Tư, 19 tháng 9, 2018

Những phát minh thiên tài thực hiện ra sao


NHỮNG PHÁT MINH THIÊN TÀI ĐƯỢC THỰC HIỆN RA SAO

Tổ tiên chúng ta đã nghĩ ra biết bao nhiêu thứ để làm cho cuộc sống của mình thuận tiện và thoải mái hơn. Bạn có biết thìa, nĩa, bàn chải răng, bao cao su, giấy vệ sinh… đã được phát minh như thế nào không, người cổ đại đã thay thế những thứ rất cần thiết này bằng gì không?
Khi nói về những phát minh vĩ đại của Thomas Edison, người ta nhớ ít nhất là năm phát minh nổi tiếng nhất: máy hát đĩa, máy đánh chữ, máy điện tín, máy phát điện xoay chiều, tất nhiên bóng đèn điện.
Theo đề án của Edison, năm 1882 nhà máy điện đầu tiên được xây dựng ở New York. Ông cũng đã tạo ra thiết bị cơ sở của máy ghi tiếng, thiết bị để ghi âm các cuộc nói chuyện điện thoại, thiết kế pin nickel-sắt và nhiều nhiều thứ nữa (tất cả gần 1000 sáng chế).

Giấy vệ sinh
Tổ tiên chúng ta đã xoay xở ra sao với việc làm vệ sinh sau khi thực hiện một nhu cầu tự nhiên tối thiểu. Francois Rabelais cho rằng dễ chịu nhất là làm điều này với sự giúp đỡ của một chú vịt (còn người Việt làm việc này với sự giúp đỡ của các chú chó thì có lẽ còn thú vị hơn và cũng chưa thấy các nơi khác trên thế giới từng làm như vậy).
Người La Mã thì dùng miếng bọt biển gắn vào một cái que và sau khi sử dụng được đặt vào một chậu nước muối. Người Viking lau bằng cục len, thổ dân châu Mỹ dùng các loại lá hoặc bẹ ngô. Các vị vua Pháp vốn thanh lịch dùng giẻ vải lanh. Dùng giấy để làm việc này đầu tiên là người Trung Hoa, tuy nhiên không phải dân thường mà chỉ những vị hoàng đế. Sau đó, việc dùng giấy lan ra khắp thế giới: người ta dùng giấy báo cũ và cả sách, vở.

Chỉ đến năm 1857 một người Mỹ tên là Joseph Guyette nghĩ ra cách cắt những mảnh giấy vuông vức và đóng thành gói. Joseph Guyette vô cùng tự hào với phát minh này nên đã viết tên của mình lên từng mảnh giấy. Tuy vậy, tên của người đã nghĩ ra cách làm giấy cuộn thì không ai biết. Những cuộn giấy vệ sinh lần đầu tiên được sản xuất ở nhà máy “Scott Paper” của Mỹ năm 1890.

Bánh xe
Ai, khi nào và tại sao người ta đã nghĩ ra bánh xe lần đầu tiên thì hiện vẫn là một trong những bí ẩn lớn nhất của lịch sử. Các bánh xe cổ nhất được tìm thấy ở vùng Lưỡng Hà và được làm ra khoảng 55 thế kỷ trước. Các bánh xe thời đó được cắt từ những súc gỗ nguyên khối có hình tròn.
Các bánh xe có nan hoa lần đầu tiên được sản xuất tại bán đảo Tiểu Á (bán đảo phía tây của châu Á, nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) trong thế kỷ XX trước Công nguyên cũng trong thế kỷ này nó được phổ biến đến châu Âu, Trung Hoa Ấn Độ. Những bánh xe như thế chỉ được sử dụng trong xe ngựa để vận chuyển người, nhưng ở Ai Cập người ta bắt đầu sử dụng cho xe chở hàng hóa. Những chiếc xe như thế rất phổ biến ở Hy Lạp cổ đại và sau đó là La Mã. Tại Mỹ, bánh xe xe chỉ xuất hiện sau khi người Âu có mặt.

Bao cao su
Gần ba ngàn năm trước Công nguyên, vua Minos của Crete đã dùng bong bóng cá làm bao để chống các bệnh lây qua đường tình dục trong thú vui tình ái. Một số nhà nghiên cứu cho rằng người La Mã cổ đại đã dùng mô cơ của những người lính bị chết để chế ra thứ bao này. Một ngàn năm trước Công nguyên người Ai Cập đã dùng các túi vải lanh và để cho nó không rơi xuống, người ta sử dụng các dải băng quấn bằng vải. Những cái túi vải lanh như thế được sử dụng trong suốt 2500 năm.

Đến thế kỷ XV ở châu Âu rất phổ biến việc dùng bao do dịch giang mai hoành hành. Những chiếc bao như thế không chỉ giúp ngăn chặn bệnh giang mai mà còn giúp tránh việc thụ thai ngoài ý muốn mà trước đó chưa một ai biết đến. Đến cuối thế kỷ XV những bao vải lanh như thế được ngâm trong một dung dịch hóa chất trước khi phơi khô để sử dụng. Đấy là những chất diệt tinh trùng đầu tiên, mà hiện nay có ở tất cả các loại bao cao su.
Tên gọi “condom” có từ thế kỷ XVII. Theo một giả thiết, đấy là tên người thầy thuốc của vua Charles II, Kondom, người đã tìm ra cách để tránh cho nhà vua việc có con ngoài giá thú và các bệnh hoa liễu từ gái mại dâm. Ông làm loại bao này từ ruột cừu. Theo một giả thiết khác - từ này có nguồn gốc tiếng Latin “Condon”, có nghĩa là “kho chứa”. Loại bao làm từ ruột động vật có giá thành rất cao, vì vậy người ta đã sử dụng nhiều lần.
Với phát minh lưu hóa cao su vào năm 1839, loại bao này trở thành bao cao su từ năm 1844. Bao cao su latex đầu tiên có từ năm 1919. Loại bao này rất mỏng và không còn nồng nặc mùi cao su. Còn những bao cao su có chất bôi trơn chỉ được sản xuất từ năm 1957.

Dây giày
Lịch sử quả thật lạ lùng vì không lưu giữ được tên tuổi của thiên tài đã phát minh ra dây giày nhưng đã giữ lại chính xác ngày tháng của nó: 27 tháng ba năm 1790. Chính trong ngày này chiếc dây buộc giày có mẩu sắt nhỏ ở hai đầu xuất hiện tại nước Anh. Còn trước đó tất cả các loại giày đều được móc bằng các móc sắt.

Thìa và nĩa
Người La Mã và Hy Lạp cổ đại nói chuyện về cái đẹp, cái cao thượng và ăn bốc bằng tay. Nhà thơ La Mã Ovid đã dạy cho họ ăn bằng ngón tay và sau bữa ăn lau chúng lên bánh mì. Sau đó ở Hy Lạp người ta đeo những chiếc găng tay đặc biệt có những ngón cứng khi ăn.
Mà nói chung, những nguyên mẫu đầu tiên của thìa muỗng đã có từ 3000 năm trước Công nguyên. Chúng được nặn từ đất sét hoặc được cắt từ xương hoặc sừng của động vật, kể cả từ vỏ sò, xương cá và gỗ. Vật giống với chiếc nĩa ngày nay nhưng không phải ba nhánh mà có năm nhánh đã có từ thế kỷ thứ X ở châu Á. Một trăm năm sau đó phát minh này lan tới châu Âu nhưng chỉ được phổ biến rộng rãi vào thế kỷ XVI.
Đến cuối thế kỷ XVIII ở châu Âu những con dao lưỡi thẳng nhường chỗ cho dao có lưỡi cắt hình khuyết. Sự cần thiết dùng dao chọc vào thức ăn đã không còn vì chức năng này đã có nĩa thực hiện.

Cúc áo
Thay vì dùng cúc để kết nối các mảnh quần áo của mình, người cổ đại đã dùng gai thực vật, xương động vật hay các mảnh gỗ. Người Ai Cập cổ đại đã dùng những sợi len xâu qua các mảnh quần áo để liên kết chúng với nhau.

Ai là người đã phát minh ra chiếc cúc áo lịch sử đã không còn lưu giữ lại được: một số nhà nghiên cứu cho rằng đấy là người La Mã hoặc Hy Lạp cổ đại, một số khác lại cho rằng chính người châu Á mới là những người phát minh ra chiếc cúc áo. Những chiếc cúc đầu tiên được làm bằng ngà voi.
Cúc áo có được sự phổ biến rộng rãi chỉ từ thế kỷ XII. Và sang thế kỷ XIII nó trở thành dấu hiệu của sự giàu có và sành điệu. Các bậc vua chúa và tầng lớp quí tộc thường sử dụng những chiếc cúc áo làm từ vàng và bạc. Cũng từ thế kỷ XIII các cúc áo được làm từ sắt và đồng và mãi đến thế kỷ XIX chúng là thứ hàng đắt tiền nên người ta thường dùng những chiếc cúc từ những bộ quần áo cũ cho những bộ quần áo mới.

Ghim kẹp giấy
Từ thế kỷ XIII con người đã biết cách xếp các tờ giấy vào nhau rồi xâu một sợi dây qua lỗ ở góc phía bên trên. Năm 1835 bác sĩ John Ayrlend Howe ở New York đã làm ra một chiếc máy sản xuất kim găm. Kim găm, đã đành là người ta nghĩ ra để dùng cho thợ may, để trong khi may các mảnh vải rời không bị rơi ra, thế nhưng người ta còn dùng chúng để găm giấy.
Còn chiếc ghim kẹp giấy đầu tiên là do nhà sáng chế người Na Uy Johan Vaaler nghĩ ra năm 1899. Johan Vaaler không thu được đồng nào từ phát minh này vì ông không làm tìm được nguồn vốn đầu tư hay nhà sản xuất, là điều mà những người Anh (công ty Gem Manufacturing Ltd) đã làm được vào năm 1900. Quả thực, chiếc ghim do công ty này sản xuất mới có hình dạng của chiếc ghim kẹp giấy thời nay, nhưng không hiểu tại sao không một ai đăng ký phát minh này cả.

Lược chải đầu
Những chiếc lược cổ xưa nhất được con người sử dụng là những chiếc lược làm từ xương cá. Không rõ khi nào và ở đâu có những chiếc lược đầu tiên nhưng một trong những chiếc lược cổ nhất được tìm thấy trong cuộc khai quật tại vùng đất của La Mã cổ đại. Chiếc lược này được làm từ xương động vật, có tay nắm và có tám răng cách nhau 0,2 cm. Sau đó lược còn được làm bằng gỗ, ngà voi, san hô, mai rùa và sừng các loại động vật khác nhau. Những nguyên liệu này được dùng để làm lược cho đến giữa thế kỷ XIX.
Năm 1869 hai anh em Ê-sai và John Hyatt phát minh ra nhựa đã hoàn toàn thay đổi việc sản xuất lược. Voi hay rùa là những động vật ngày càng hiếm hoi mà người sử dụng lại có được những chiếc lược vừa rẻ, vừa bền lại vừa giống với lược ngà voi, mai rùa hay san hô.

Diêm
Con người đã từng sử dụng biết bao nhiêu cách khác nhau để lấy lửa trước khi diêm xuất hiện. Quẹt bề mặt các thanh gỗ, đá vào nhau, đập tia lửa với silic, bắt các tia nắng mặt trời qua mảnh thủy tinh. Và khi thu được lửa thì người ta cẩn thận giữ bằng than trong chậu bằng đất nung.
Chỉ đến cuối thế kỷ XVIII thì cuộc sống mới trở nên dễ dàng hơn khi nhà hóa học người Pháp Claude Berthollet tìm ra chất kali clorat. Vì thế, ở châu Âu năm 1805 xuất hiện một loại diêm que được phết kali clorat và chúng phát lửa khi nhúng vào dung dịch a-xít sunfuric đậm đặc.
Còn những que diêm khô thì lại là công của nhà hóa học người Anh John Walker. Năm 1827 ông nhận thấy rằng nếu đem hỗn hợp gồm sulfua antimon, kali clorat và gôm arabic phết lên đầu que gỗ, sau đó phơi khô trong không khí và khi quẹt vào giấy nhám thì đầu của nó sẽ dễ dàng bắt lửa.

Từ đó, việc mang theo lọ a-xít sunfuric kè kè bên mình đã không cần thiết nữa. Walker liền tổ chức một xưởng sản xuất diêm của mình. Những hộp diêm 100 que được đóng trong những chiếc hộp thiếc. Tuy nhiên, loại diêm này có mùi rất khủng khiếp nên nhà phát minh cũng chẳng kiếm được bao nhiêu.
Năm 1830 nhà hóa học trẻ tuổi người Pháp Charles Sauria làm ra loại diêm phốt pho từ hỗn hợp phốt pho kali clorat và keo. Loại diêm này dễ bốc lửa khi quẹt vào bề mặt cứng bất kỳ, kể cả vào đế giày, tuy nhiên chúng lại có hại cho sức khỏe của người sử dụng vì phốt pho trắng rất độc.
Năm 1855 nhà hóa học người Thụy Điển Johan Edvard Lundström hiểu rằng phốt pho đỏ tốt hơn phốt pho trắng nên đã dùng phốt pho đỏ bôi lên bề mặt giấy nhám và cả vào hỗn hợp trên đầu que diêm. Bằng cách như vậy diêm đã không còn hại cho sức khỏe người sử dụng mà vẫn bắt lửa tốt.
Cuối cùng, năm 1899 Joshua Pusey làm ra hộp diêm đầu tiên nhưng bằng sáng chế lại được trao cho công ty Diamond Match Company vì công ty này cũng nghĩ ra hộp diêm y hệt như vậy, chỉ với một điểm khác là bề mặt đánh lửa ở phía ngoài hộp (còn của Joshua Pusey lại ở bên trong hộp).

Băng vệ sinh
Bắt đầu từ những ngày còn sống trong hang động cho đến thời đại văn minh đầu thế kỷ XXI này, một nửa loài người là phụ nữ đã phải tỏ ra tháo vát trong những ngày nguy ngập. Thời tiền sử phụ nữ đã dùng tất cả: từ cỏ lá, rêu đến rong tảo biển. Người Ai Cập cổ đại sử dụng lá cây papirut, người Hy Lạp dùng giẻ cuộn lại. Người La Mã dùng len, người Nhật dùng giấy, người châu Phi dùng lá cỏ…
Vào đầu thế kỷ XIX phụ nữ bắt đầu may băng vệ sinh bằng giẻ được làm từ sợi bông và sử dụng nhiều lần: sau khi dùng xong đem giặt và phơi khô. Đến cuối thế kỷ này một người thông minh nào đó đã nghĩ ra cách sản xuất hàng loạt băng vệ sinh nhưng do không có quảng cáo nên không được phổ biến rộng rãi.
Đầu thế kỷ XX phụ nữ nghĩ ra cách dùng gạc bông để làm băng vệ sinh. Trong thập niên 20 của thế kỷ XX băng vệ sinh được bày bán ở các cửa hàng và được quảng cáo rộng rãi trên các báo, tạp chí phụ nữ. Phụ nữ thời đấy dùng kim băng gắn vào quần lót hoặc buộc dây rồi quấn vào vòng eo.
Băng vệ sinh tampon đầu tiên được sản xuất hàng loạt vào năm 1936 nhưng chỉ thực sự phổ biến vào thập niên 1960. Một thập niên sau đó người ta mới nghĩ ra cách dùng băng dính để gắn băng vệ sinh vào đồ lót. Còn gel thấm nước, thành phần quan trọng của băng vệ sinh hiện đại chỉ được nghĩ ra trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX.

Kim khâu
Lịch sử nghề may đã có từ 20 ngàn năm nay. Người nguyên thủy dùng gai nhọn hoặc đá để đâm lỗ da thú và làm quần áo.
Những chiếc kim có lỗ đầu tiên làm từ đá, xương hoặc sừng của động vật được tìm thấy ở Bắc Âu và Trung Á có độ tuổi là 17 ngàn năm. Ở châu Phi người ta dùng xương lá cọ để làm kim. Những chiếc kim bằng sắt đầu tiên được cho là do người Trung Hoa làm ra. Việc sản xuất kim hàng loạt chỉ bắt đầu vào thế kỷ XIV ở Nuremberg và sau đó là ở Anh.
Những chiếc kéo đầu tiên được tìm thấy ở Ai Cập. Những chiếc kéo này chỉ có một cánh và có độ tuổi là thế kỷ XVI trước Công nguyên. Còn chiếc kéo có hình dạng như kéo ngày nay là phát minh của Leonardo da Vinci.

Gót giày cao gót
Những chiếc gót giày cao có từ thế kỷ XII và chúng có mục đích đơn giản là để làm cho bàn chân của những kỵ sĩ bám chắc vào bàn đạp. Thế nhưng ai là người đầu tiên phát minh ra gót giày cao gót như ngày nay thì không ai biết chính xác, mặc dù thiên hạ vẫn cho đấy là những người thợ thủ công ở thành phố Cordoba, Tây Ban Nha trong thế kỷ XVII.

Những người thợ này đã tạo ra hình dáng của chiếc gót gày vát vào bên trong theo dáng của “vòng eo Pháp” ở giữa. Theo thời gian, gót giày có một số thay đổi: từ những gót giày cao như ly rượu đến gót vuông và rộng được thiết kế đặc biệt cho những cô gái nhảy điệu twist. Năm 1950 nhà thiết kế thời trang Ý Salvatore Ferragamo đã phát minh ra kiểu gót cao nhỏ có một thanh thép dài ở giữa.

Bàn chải răng
Việc chăm sóc sức khỏe răng miệng đã được người Ai Cập cổ đại thực hiện từ 3000 năm trước Công nguyên. Trong những quan tài bằng đá người ta tìm thấy những nguyên mẫu của bàn chải răng được làm từ những nhánh cây rủ xuống ở phần cuối. Tuy nhiên, người ta cho rằng một vị hoàng đế Trung Hoa mới là người phát minh ra bàn chải răng hiện đại vào năm 1498. Bàn chải này được làm từ lông heo rừng Siberi.
Sang thế kỷ XVII phát minh này được phổ biến ở châu Âu, nơi mà trước đó chưa từng quen với việc đánh răng, và người Âu thay lông heo rừng bằng lông bờm ngựa mềm mại hơn. Đến đầu thế kỷ XX người ta vẫn dùng lông của động vật để làm bàn chải răng.
Năm 1937 nylon được phát minh và từ năm 1938 người ta dùng nylon để làm bàn chải. Tuy nhiên, bàn chải từ lông động vật vẫn tiếp tục được sản xuất vì chúng có phần mềm mại hơn. Chỉ từ năm 1950 bàn chải nylon mới trở thành mềm mại như bàn chải ngày nay.


MƯỜI SỰ KIỆN RÚT TỪ LỊCH SỬ LIÊN XÔ

1. Trong thời gian đầu của cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại trong Thế chiến II Liên Xô thiếu xe tăng một cách nghiêm trọng, vì thế có một quyết định được đưa ra trong trường hợp khẩn cấp là cải tiến máy kéo thông thường thành xe tăng. Trong trận đánh ở thành phố Odessa có 20 “xe tăng” làm từ máy kéo được đưa vào sử dụng. Mục đích của việc làm này là chủ yếu đánh đòn tâm lý và đã mang lại hiệu quả không ngờ. Những chiếc máy kéo được bọc thêm các tấm thép với tháp pháo và đèn pha bật sáng trong đêm đã làm cho kẻ thù hoảng sợ bỏ chạy. Những người lính đã gọi loại “xe tăng” này là NI-1, được giải mã thành “Để dọa dẫm”(На испуг).
2. Ở Liên Xô từ tháng 11 năm 1941 có một loại thuế bằng 6% tiền lương đánh vào những người không có con. Đàn ông tuổi từ 20 đến 50 và phụ nữ có chồng tuổi từ 20 đến 45 mà không có con thì phải nộp thuế này. Những người có thu nhập dưới 70 rúp một tháng, những người không thể có con vì lý do sức khỏe, những người có con nhưng bị chết hoặc mất tích trong chiến tranh, Anh hùng Liên Xô và những người phục vụ trong quân đội đều được miễn đóng loại thuế này. Dân gian gọi loại thuế này là “thuế để mua trứng” (налог на яйца).
3. Tại World Cup 1962 đội tuyển bóng đá Liên Xô gặp đội tuyển Uruguay. Sau quả sút của một cầu thủ Liên Xô bóng bay vào lưới đội Uruguay qua lỗ thủng từ phía bên ngoài cầu môn, gỡ hòa 1:1 cho đội Liên Xô. Do trọng tài không nhìn thấy nên bàn thắng này đã được tính, tuy nhiên đội trưởng đội Liên Xô, Igor Netto đã làm hiệu, giải thích cho trọng tài rằng bàn thắng không đúng. Cuối cùng bàn thắng này đã không được tính nhưng đội tuyển Liên Xô vẫn giành chiến thắng trong trận này.
4. Ở Liên Xô từng có một giai thoại về câu nói nổi tiếng của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Nikita Khrushchev tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc: “Tôi sẽ cho các ngài biết mẹ Kuzma!” (Я вам покажу кузькину мать!). “Mẹ Kuzma” là gì? Hình như đấy là một loại vũ khí mới bí mật! Kết quả là sau đó cụm từ: “Mẹ Kuzma” được dùng để chỉ một loại bom nhiệt hạch của Liên Xô. Trên thực tế, người phiên dịch hôm đó đã không dịch theo nghĩa đen, mà là: “Tôi sẽ cho các ngài biết cái gì là cái gì”, nguyên văn lời dịch ra tiếng Anh: “We shall show you what is what”.

Mặc dù người Mỹ dịch là “Kuzma’s mother” nhưng theo lời của người phiên dịch của Khrushchev, Viktor Shuhodrev thì cụm từ này không thể dịch được. Chính Khrushchev cũng đã nói: “Các bạn phiên dịch vò đầu mà làm gì? Tôi chỉ muốn nói rằng, chúng ta sẽ cho nước Mỹ thấy cái mà họ chưa bao giờ nhìn thấy”.
5. Để sản xuất đĩa dùng ghi nhạc lậu, ở Liên Xô phổ biến việc sử dụng phim X-quang cũ. Người ta gọi loại đĩa này là “đĩa trên xương sườn” (пластинки на ребрах). Thứ nguyên liệu này không chỉ không mất tiền mà còn giúp cho các kho lưu trữ y tế dỡ bỏ bớt được phần nào.
6. Từ ngày 22 tháng 6 năm 1941 đến ngày 1 tháng 7 năm 1941 (9 ngày) trong lực lượng vũ trang của Liên Xô có đến 5,3 triệu người.
7. Trong cuộc diễu hành mừng Chiến thắng ngày 24 tháng 6 năm 1945 những người lính đã bế trên tay mình một con chó. Mà con chó này nằm trên chiếc áo khoác của Tổng tư lệnh Stalin. Đó là một trong những con chó được huấn luyện để giúp cho những người lính công binh rà phá bom mìn. Con chó này có tên là Djulbars. Trong năm cuối cùng của chiến tranh, Djulbars đã phát hiện ra 7.468 quả mìn và hơn 150 đạn pháo ở các nước châu Âu. Không lâu trước cuộc diễu hành mừng Chiến thắng tại Moskva ngày 24 tháng 6, Djulbars bị thương và không thể đi trong đoàn chó quân sự tham gia diễu hành. Thế là Stalin ra lệnh mang con chó đến Quảng trường Đỏ trên áo ca-pốt của mình.
8. Cuối năm 1991 việc chúc năm mới trên truyền hình của nguyên thủ quốc gia gặp sự rắc rối. Về hình thức Gorbachev là Tổng thống Liên Xô nhưng đã không còn quyền lực gì, còn Yeltsin cũng không thể chúc mừng vì nguyên nhân nào đó. Thế là người ta đã đề nghị Mikhail Zadornov – nhà văn, diễn viên truyền hình làm việc này. Vốn là nhà văn trào phúng, trong lời chúc năm mới được truyền hình trực tiếp, Zadornov đã phát biểu say sưa để quá đến một phút so với thời khắc giao thừa. Vì việc này mà những người phụ trách kỹ thuật đã phải giữ Đồng hồ chuông điện Kremlin lại, không cho đổ chuông đúng giờ.
9. Lev Yashin không chỉ là thủ môn bóng đá mà còn từng là thủ môn khúc côn cầu. Năm 1953 ông đoạt Cup khúc côn cầu Liên Xô và đoạt huy chương đồng giải Vô địch Liên Xô. Người ta đã từng muốn gọi Yashin vào đội tuyển khúc côn cầu dự World Cup nhưng ông quyết định chỉ tập trung cho bóng đá.

10. Công trình vật chất nhân tạo lớn nhất mọi thời đại do con người tạo nên – đó là hình “nấm” từ quả bom khinh khí AN602 của Liên Xô. Tên hiệu của nó là Tsar-bomba (Царь-бомба) – là vũ khí hạt nhân lớn nhất, mạnh nhất từng được cho nổ và hiện tại vẫn là thiết bị nổ mạnh nhất mà con người từng cho nổ trong lịch sử nhân loại.


Con đường gian nan của trà túi lọc


CON ĐƯỜNG GIAN NAN CỦA TRÀ TÚI LỌC

Cứ mỗi năm những công nghệ mới lại được sinh ra và làm xuất hiện những sản phẩm mới tiện dụng, nhanh chóng và có chất lượng cao. Một trong những phát minh làm thay đổi truyền thống hàng nghìn năm nhưng không làm thay đổi tính chất cũng như thái độ đối với sản phẩm. Đó là trà túi lọc.
Hương vị đặc biệt của trà, sự đa dạng về chủng loại, mùi hương và những chức năng chữa bệnh của chúng đã chinh phục những người hâm mộ khắp nơi trên thế giới. Nhưng trong thời đại ngày nay mấy ai có đủ thời gian để thưởng thức trà theo nghi thức trà đạo mà ngày càng có nhiều người chọn trà túi lọc.
Sự tiến hóa của công nghệ về trà bắt đầu từ thế kỷ XIX, khi người Anh đưa vào sử dụng các nhà máy sản xuất trà và việc sản xuất bằng máy. Điều này dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của cách thức mới làm cho lá chè thành nguyên liệu để làm đồ uống.
Tuy nhiên, sự thay đổi quan trọng đầu tiên với trà xảy ra năm 1904, và không liên quan gì đến các nhà máy – trà túi lọc đầu tiên xuất hiện ở Mỹ. Và điều kỳ lạ này dần dần thay đổi cách sản xuất trà truyền thống. 77 % lượng trà sản xuất ở châu Âu là trà túi lọc, còn ở nước Anh bảo thủ – có đến 93 % dân số dùng trà túi lọc.
Tất cả được bắt đầu như thế này: Năm 1904, thương gia người Mỹ Thomas Sullivan đầu tiên đề xuất một cách uống trà bất thường. Ông bắt đầu gửi cho khách hàng của mình rất nhiều loại trà khác nhau đựng trong những túi lụa. Trong mỗi túi là số lượng lá trà đủ để pha một tách trà. Mục đích của việc gửi trà chào hàng không phải là mong muốn đơn giản hóa trà đạo. Đây chỉ là những thử nghiệm! Nghĩa là khách hàng có thể so sánh các loại trà khác nhau mà không cần phải mua số lượng lớn, và chỉ sau đó mới là sự lựa chọn.
Mấy năm sau đó, công ty trà Teekanne ở Dresden đã áp dụng ý tưởng này và bắt đầu cung cấp trà cho quân đội bằng các bao gạc. Những người lính gọi những gói này “tea-bom”, nghĩa là nếu muốn, bạn có thể uống một tách trà nhanh chóng vào bất cứ lúc nào. Hình thù trà túi lọc như ngày nay do Adolf Rambold nghĩ ra năm 1929. Cũng chính Adolf Rambold  đã sáng chế ra chiếc máy đóng gói trà có tên “Constanta Teepackmaschine”.
Những “túi trà” đầu tiên được làm bằng tay, chỉ đến năm 1929 bắt đầu xuất hiện các túi trà được sản xuất bằng máy. Trong thập niên 1920 kỹ sư người Mỹ Faye Osborne (công ty Dexter) đã đi tìm một loại giấy có thể thay thế cho lụa hay gạc mà không để lại mùi vị riêng. Một hôm ông để ý đến một tờ giấy mỏng, mềm nhưng bền mà người ta dùng để cuốn xì-gà. Biết rằng loại giấy này có xuất xứ từ Nhật, năm 1962 Osborne quyết định làm ra loại giấy như vậy. Đầu tiên ông thử dùng nguyên liệu từ các loại gỗ nhiệt đới, rồi đay, bông nhưng đều không có kết quả. Cuối cùng ông dùng cây chuối abaca (musa textilis) là nguyên liệu mà người ta dùng để làm dây neo thuyền và kết quả là đầy hứa hẹn.
Trong những năm 1929-1931 Osborne đã thử các thành phần hóa học khác nhau, để làm cho tờ giấy xốp hơn mà vẫn giữ được độ bền. Chọn phương pháp tối ưu, ông đã dành nhiều năm nữa để chuyển quy trình phòng thí nghiệm sang việc sản xuất giấy cuộn hàng loạt ở nhà máy.
Trong khi đó thì trà túi đã giành được thị phần tại thị trường Mỹ. Chúng được làm từ vải gạc và các số liệu tự nói nên qui mô của sản phẩm này: thập niên 1930, cả nước Mỹ hàng năm dùng đến 7 triệu mét vải gạc để đóng túi trà. Từ đầu năm 1934 Osborne bắt đầu sản xuất giấy để gói chè bằng công nghiệp và sang năm 1935 loại giấy này còn được dùng để gói thịt và các sản phẩm điện tử. Đến cuối thập niên 1930 túi làm từ giấy đã giành phần thắng so với túi làm bằng vải gạc.
Nhưng kể từ khi xảy ra chiến tranh Thế giới thứ II, chuối abaca (musa textilis) trở thành thứ nguyên liệu chiến lược (thứ cây này chỉ mọc ở Philippin), chính phủ Mỹ không chỉ cấm dùng nguyên liệu này để sản xuất túi trà mà còn trưng thu dự trữ của Osborne cho nhu cầu của Hạm đội. Nhưng nhà phát minh không chịu bó tay, ông tiếp tục nghiên cứu và đến năm 1942 tạo ra một loại giấy mới rất mỏng và bền mà không dùng đến abaca. Hai năm sau đó, ông tìm ra cách “dán” mép túi bằng phương pháp “ép nóng” thay cho cách khâu bằng chỉ trước đó. Hai thành tựu này đã mở rộng đường cho trà túi lọc.
Tuy nhiên phải mất đến nửa thế kỷ để trà túi lọc chinh phục được những người Anh vốn bảo thủ. Bởi vì cái nhãn giấy gắn trên sợi dây xâu vào gói trà vốn làm cho người Anh nghi ngờ với phát minh của người Mỹ. Người Anh cũng không thích kiểu người Mỹ chỉ hãm trà trong nước nóng mà không phải nước sôi.
Công ty Tetley, nhà sản xuất chè lớn ở nước Anh, dùng công nghệ trà túi lọc năm 1953 nhưng được đón nhận không mấy nhiệt tình. Những năm đầu thập niên 1960 trà túi lọc ở Anh chỉ chiếm 3 % nhưng đến năm 1964 thì đã có một sự thay đổi mạnh mẽ trong sở thích của người tiêu dùng. Ngày nay Tetley bán 200 triệu túi trà trong một tuần.

Năm 1950 công ty Teekanne đề xuất đóng gói lá trà trong túi giấy mỏng hai lớp và không dùng keo dán. Điều này đã cải thiện hương vị của túi trà và trà túi lọc bắt đầu phổ biến rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay giấy lọc được đăng ký bản quyền bởi công ty Dexter từ năm 1938. Còn trà túi lọc được đăng ký bản quyền năm 1952 bởi công ty trà Lipton nổi tiếng.
Cần lưu ý đến một lợi thế của trà túi lọc so với trà thường. Trong túi trà lọc người ta thường đóng trà vụn là chủ yếu. Đấy là những vụn từ mép của lá trà. Phần mép này của lá là nơi tập trung chất bổ dưỡng và hương vị nhiều nhất. Bởi thế, những ý kiến cho rằng trà túi lọc thường kém chất lượng hơn trà thường là không có cơ sở.
Ngày nay trà túi lọc được dùng ở mọi quốc gia, kể cả Trung Hoa và Nhật Bản, những nơi mà người ta vốn cho rằng uống trà và sự vội vàng là những thứ không tương hợp, thậm chí xung khắc, vì rằng trà – không chỉ là thức uống mà còn là truyền thống và nghệ thuật. Còn ở Việt Nam thì có lẽ ở quán cà phê nào cũng có trà túi lọc Lipton hoặc Dilmah – là thứ đồ uống được gọi nhiều không kém những đồ uống khác.


NGUỒN GỐC CỦA MỘT SỐ DẤU VÀ KÝ HIỆU

1. Dấu chấm than “!”
Dấu chấm than xuất phát từ note of admiration” (dấu hiệu về sự ngạc nhiên). Theo một giả thuyết về nguồn gốc của nó một từ tiếng Latin biểu thị niềm vui (Io), được viết với chữ “I” trên chữ “o”. Lần đầu tiên dấu chấm than xuất hiện trongSách Giáo Lý” của vua Edward VI in tại London năm 1553.

2. Dấu chấm phẩy “;”
Dấu chấm phẩy;lần đầu tiên được thợ in người Ý, Aldo Pio Manuzio (1450-1515) sử dụng để tách các từ đối lập và các bộ phận độc lập của một câu phức. William Shakespeare đã từng sử dụng dấu chấm phẩy trong các bài sonnets của mình.

3. Dấu ngã hoặc dấu sóng “~”
Đối với người Việt thì dấu này rất quen thuộc, tuy nhiên trong tiếng Việt dấu này chỉ viết ở trên các nguyên âm (thí dụ: lã chã), còn trong hầu hết các ngôn ngữ khác nó thường được viết trên các phụ âm n và m (thí dụ: España) mà trong môn tốc ký từ thời Trung cổ được viết như một đường lượn sóng.


4. Dấu và, cùng “&”
Dấu và “&” được cho là của Marcus Tullius Tiro, người đầy tớ trung thành thư ký của Cicero. Ngay cả sau khi Tiro được tự do, ông vẫn tiếp tục viết văn bản cho Cicero. tới năm 63 trước Công nguyên ông phát minh ra hệ thống chữ viết tắt riêng của mình để tăng tốc độ ghi chép được gọi là “Notæ Tironianæ” (Những ký hiệu Tiro). Tiro, do vậy, được coi là người sáng lập ra môn tốc ký La Mã.

5. Dấu hỏi “?”
Dấu hỏi được tìm thấy trong sách in từ thế kỷ XVI nhưng để biểu thị câu hỏi thì muộn hơn nhiều, chỉ trong thế kỷ XVIII. hiệu “?” xuất phát từ các chữ cái Latin qo (quaestio - tìm kiếm [trả lời]). Ban đầu chữ q được viết trên chữ o, thế rồi sau đó được chuyển thành một ký hiệu như ngày nay.

6. Dấu phần trăm “%”
Từ phần trăm (percent) xuất phát từ tiếng Latin “pro centum. Năm 1685 tại Paris, Mathieu de la Porte xuất bản cuốn sách Hướng dẫn số học thương mại”. Có đôi chỗ trong cuốn sách này nói về phần trăm, được kí hiệu bằng “cto” (rút gọn của “cento”). Tuy nhiên khi đem in thợ xếp chữ nghĩ rằng “cto” là phân số nên xếp thành %. Và thế là kí hiệu này đi vào đời sống.

7. Dấu sao hay hoa thị “*”
Dấu này đã có từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên trong các văn bản ở thư viện Alexandria do nhà ngôn ngữ học cổ đại Aristophanes (Aristophanes of Byzantium) dùng để biểu thị sự chưa rõ ràng.

8. Dấu thăng “#”
Nguyên ngữ chữ viết của tiếng Anh (octothorp, octothorpe, octatherp) là những từ đang gây tranh cãi. Theo một số giả thiết, hiệu này có nguồn gốc từ các bản đồ truyền thống  thời Trung cổ, nơi ký hiệu này là một ngôi làng được bao quanh bởi tám thuở ruộng (vì vậy nên có tên octothorp”). Theo những giả thiết khác, đấy là một ký hiệu vui nhộn do Don Macpherson đưa ra đầu thập niên 1960 xuất phát từ octo (tiếng Latin: octo – nghĩa là tám) nói về tám điểm cuối của ký hiệu này. Còn –thorpe là nói đến Jim  Thorpe (người đoạt huy chương Olympic mà Don Macpherson hâm mộ). Tuy nhiên, Douglas A. Kerr, trong bài viết Các ký tự ASCII “Octatherp” nói rằng octatherp” đã được tạo ra như là một trò đùa của riêng mình, các kỹ sư John Bell Labs Shaak Herbert Utlautom cũng đưa ra ý kiến tương tự.

9. Dấu ngoặc đơn “()”
Dấu ngoặc đơn (ngoặc ôm) xuất hiện năm 1556 trong các công trình của nhà toán học người Ý, Tartaglia. Đồng thời, nhà toán học Ý, Bombelli cũng đã sử dụng như một dấu ngoặc đơn, bắt đầu bằng chữ cái L, còn phần cuối chữ L lộn ngược (năm 1550), cách viết này đã trở thành tổ tiên của dấu “[ ]”. Dấu ngoặc đơn có hình dáng gần như ngày nay do nhà toán học người Pháp, Vièete đề xuất (năm 1593) và được nhà triết học, nhà toán học người Đức Leibniz phổ biến sau đấy.


10. A còng @
Trong cuốn này đã có bài chi tiết về ký hiệu này. Hiện tại chưa ai biết chính xác @ có nguồn gốc từ đâu. Chỉ có những giả thiết. Giả thiết phổ biến nhất là cách viết tắt giới từ “ad” của tiếng Latin thời Trung cổ do nhà ngôn ngữ học Ulman đề xuất. Năm 2000, giáo sư Giorgio Stabile tìm thấy ký hiệu này ở trong một bức thư của nhà buôn Francesco Lapi viết năm 1536.  Năm 2009 nhà sử học Tây Ban Nha, Jorge Romance tìm thấy ký hiệu @ trong bản “Taula de Ariza” được viết năm 1448, nghĩa là khoảng một thế kỷ trước bức thư nói trên.


Những nhà phát minh đánh cắp ý tưởng


NHỮNG NHÀ PHÁT MINH ĐÁNH CẮP Ý TƯỞNG

Galileo Galilei
Nếu ta hỏi một học sinh phổ thông trung học rằng cống hiến đáng kể của Galilei cho khoa học là gì thì chắc chắn câu trả lời sẽ là kính viễn vọng. Trên thực tế Galilei không phải là người đầu tiên phát minh ra kính viễn vọng. Ông là người đánh cắp ý tưởng.
Vậy thì ai là người phát minh ra kính viễn vọng? Đó là nhà bác học người Hà Lan, Hans Lippershey. Ông là người đầu tiên chế tạo ra kính viễn vọng năm 1608 và đã cố gắng để đăng ký phát minh này nhưng không được chấp thuận. Galilei biết thông tin này và năm 1609 đã chế tạo chiếc kính viễn vọng của mình. Cần phải nói rằng độ phóng đại của kính viễn vọng do Galilei chế tạo lớn hơn nhiều so với kính viễn vọng của Hans Lippershey. Và mặc dù Galilee cũng không đăng ký được phát minh này nhưng người thời nay chỉ nhắc đến Galilei mà không biết gì đến Hans Lippershey khi nói về kính viễn vọng.

Thomas Edison
Thomas Edison nổi tiếng là một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại với 1093 phát minh. Đã đành, ở đời này có thể có người đàn ông đi khắp nơi bắt cóc rất nhiều đứa trẻ đem về nhà mình nuôi. Nhưng như thế không có nghĩa rằng ông là người bố có nhiều con cái nhất. Và cũng không ngoa nếu có ai đó gọi ông là “kẻ ăn cắp chuyên nghiệp”. Những điều này rất đúng với Thomas Edison và đã từng được chứng minh, tuy vậy, ở nhà trường các em học sinh vẫn được dạy rằng điện, phim, bóng đèn dây tóc và vô khối thứ quan trọng khác là phát minh của Thomas Edison. Danh mục những phát minh của Thomas Edison rất dài, ở đây chỉ dừng lại một trong số đó – bóng đèn dây tóc.

Vậy thì ai là người phát minh ra bóng đèn điện? Đó là Jean Foucault, Humphrey Davy và một số người nữa, tuy nhiên, người đầu tiên sáng chế ra bóng đèn dây tóc là nhà phát minh người Đức, Heinrich Goebel. Goebel từng cố thuyết phục Edison mua phát minh của mình nhưng Edison đã từ chối vì không thấy có lợi gì ở phát minh này. Sau khi Goebel chết, Edison đã mua lại phát minh này ở người góa phụ nghèo với giá rẻ hơn nhiều so với giá chào của Goebel. Không chỉ dừng lại ở đây, Edison còn mua phát minh bóng đèn của Joseph Swan, sau Goebel nhưng trước Edison một năm. Thế nhưng bây giờ người ta chỉ dạy cho học sinh rằng bóng đèn là phát minh của Thomas Edison.

Alexander Graham Bell
Người đời coi Bell là người sáng chế ra máy điện thoại. Ông là người thường xuyên tiếp xúc với những người điếc, kể cả mẹ và vợ mình, thành ra, thật khó hiểu một điều: ông sáng chế ra máy điện thoại để làm gì.
Vậy thì ai mới là người sáng chế ra máy điện thoại? Năm 1860 một người Ý tên là Antonio Meucci đã công bố chiếc máy điện thoại do ông nghĩ ra và gọi nó là teletrofono. Chính ông là người đã phát minh ra máy điện thoại. Tuy nhiên, là một người nhập cư nghèo, ông đã không kiếm đâu ra 10 đô la để làm thủ tục đăng ký phát minh của mình. Hai năm sau đó Alexander Graham Bell nhận được bằng phát minh điện thoại, trở thành người nổi tiếng và giàu có. Còn người phát minh đích thực của điện thoại đã chết trong nghèo khổ và vô danh tiếng.

Albert Einstein
Trong tất cả các tài liệu khoa học cũng như các loại từ điển xưa nay đều gọi Albert Einstein là cha đẻ của Thuyết tương đối. Tuy vậy tất cả đều không hẳn đơn giản thế.

Vậy thì ai là người đầu tiên đưa ra Thuyết tương đối? Các nhà khoa học đều biết rằng Jules Henri Poincaré là người đã đưa ra Thuyết tương đối trước Albert Einstein. Tuy nhiên,  Albert Einstein phủ nhận việc tiếp xúc với các công trình khoa học của Poincaré. Trong 30 cuốn sách và 500 bài báo của mình, Einstein không hề nhắc đến tên Poincaré.

Alexander Fleming
Người đời nhớ đến Alexander Fleming khi nói về penicillin và câu chuyện ông đã chữa bệnh viêm phổi cho Winston Churchill. Tuy vậy tất cả không hẳn thế. Thực ra, Winston Churchill không được chữa bằng penicillin và Fleming không phải là người đầu tiên phát minh ra penicillin.
Vậy thì ai là người phát minh ra penicillin? Xác định chính xác điều này không hề dễ nhưng đã từ rất lâu, trước Fleming, các bộ tộc ở Bắc Phi đã từng dùng penicillin để chữa bệnh. Năm 1897 Ernest Duchesne đã dùng mốc penicillum glaucoma để chữa bệnh sốt ban cho heo biển. Tuy vậy, người ta chỉ coi đó là chuyện vớ vẩn nên Ernest Duchesne không được nhận bằng phát minh. 10 năm sau đó Duchesne đã chết vì bệnh sốt này. Sau đó rất lâu Fleming tình cờ tìm ra penicillin và cũng không nghĩ rằng nó sẽ có ích cho ai đó. Các nhà khoa học Howard Florey, Norman Heatley, Andrew Moyer, Ernst Chain đã tiếp tục phát triển phát minh này và làm cho penicillin trở thành loại thuốc như ngày nay.


NHỮNG GIÁ TRỊ MỘT LẦN MUÔN THUỞ

Trà túi lọc, tã lót em bé, bao cao su, ống tiêm, bút bi, hộp quẹt, cốc chén dùng một lần – những thứ này không thể thiếu trong đời sống hiện đại. Vậy mà chúng đã có lịch sử cả… trăm năm. Những thứ dùng một lần xuất hiện từ đầu thế kỷ XX, bùng nổ trong thập niên 1920, khi mà hầu như năm nào cũng có một thứ gì đó mới mẻ xuất hiện. Người tiêu dùng vui mừng không kể xiết. Một nhà văn đã viết rằng những thứ này làm cho con người ta thoát khỏi cuộc sống buồn tẻ và có nhiều thời gian hơn để làm những việc quan trọng khác.

Trà túi lọc
Trà túi lọc ra đời rất ngẫu nhiên. Đấy là vào năm 1904, Thomas Sullivan – nhà kinh doanh trà và cà phê ở New York thường xuyên phải gửi mẫu trà đựng trong hộp sắt cho khách hàng qua đường bưu điện. Sullivan nghĩ rằng nếu đem mẫu trà gói bằng vải thì sẽ tiết kiệm được trọng lượng rất đáng kể. Thế là ông dùng vải muslin và vải lụa để gói mẫu trà gửi cho khách hàng. Sau đấy khách hàng nói rằng họ đã đem cả gói chè như vậy cho vào nước sôi luôn. Vậy là trà túi ra đời từ đó nhưng mãi đến thập niên 1950 thì trà túi lọc mới có hình dáng như bây giờ.
Trà túi lọc được đăng ký bản quyền năm 1952 nhưng không phải do Thomas Sullivan mà là Thomas Lipton – một đối thủ của Sullivan. Chính Lipton là người đã đóng những gói trà vào hộp carton, bên ngoài có trang trí những hình ảnh đẹp mắt. Năm 1897 ông được phong tước hiệp sĩ do những công lao trong việc truyền bá lối sống Anh.

Ly dùng một lần
Ly uống nước, sau là bát đĩa dùng một lần cũng được phát minh vào khoảng thời gian với trà túi lọc. Năm 1908 bác sĩ Alvin Davidson công bố một nghiên cứu về những em học sinh bị chết. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết là do sử dụng ly uống nước bằng sắt không hợp vệ sinh. Cũng trong năm đó một sinh viên luật ở Kansas, Hugh Moore đăng bài báo trên tờ The Packer chỉ trích việc mất vệ sinh của chén bát dùng nơi công cộng và kêu gọi dùng “ly an toàn” (safe cup) được xoắn từ bìa carton do chính Moore nghĩ ra.

Moore kêu gọi nhà doanh nghiệp Lawrence Luellen đầu tư để sản xuất loại ly này. Năm 1910 họ đăng ký bản quyền phát minh và thành lập công ty sản xuất ly uống nước cá nhân (Individual Drinking Cup Cоmpany). Sau đó họ sử dụng máy bán hàng tự động và đặt ở các nhà ga cũng như nhiều nơi công cộng khác. Đến năm 1960 chỉ ở Mỹ hàng năm đã bán được 50 triệu đô la loại ly uống nước bằng giấy này.

Tã lót dùng một lần
Ý tưởng tã lót dùng một lần không thành công ngay từ đầu mà sau nhiều lần cải tiến. Người phát minh ra nó là Marion Donovan, phó tổng biên tập tạp chí Vogue, một phụ nữ đông con. Donovan hầu như không có thời gian để giặt tã lót cho đứa con mới sinh nên nghĩ ra cách dùng tấm che bồn tắm cùng mấy miếng cao su làm một loại quần lót cho con nhỏ. Donovan đặt tên cho nó là The Boater (từ boat – thuyền). Sau một số cải tiến, năm 1949 The Boater được bán ở cửa hàng Saka Fifth Avenue nổi tiếng ở New York và có nhiều người mua đến mức bà được trả 1 triệu đô la cho tiền bản quyền.
Nhưng nhà phát minh không chỉ dừng này ở đó mà tiếp tục cải tiến và đăng ký bản quyền vào năm 1951. Gần 10 năm sau đó công ty Prоcter & Gamble mua bản quyền này để sản xuất loại tã lót Pampers. Hiện nay thị trường tã lót dùng một lần của thế giới là khoảng 10 tỷ đô la Mỹ.

Ống tiêm dùng một lần
Dược sĩ, bác sĩ thú y người New Zealand, Colin Murdoch có đến 45 bằng phát minh. Nhưng phát minh đáng kể nhất của ông là ống tiêm dùng một lần. Ý tưởng ống tiêm dùng một lần nảy ra trong đầu Murdoch khi ông đang ngồi trên máy bay năm 1956, khi đó nhà phát minh 27 tuổi. Cũng trong năm này ông nhận được bằng phát minh cho ống tiêm dùng một lần, là dụng cụ ngăn ngừa hiệu quả việc lây nhiễm từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác.
Murdoch cũng sáng chế ra loại súng bắn mũi tiêm chứa thuốc ngủ để bắt những loại thú lớn từ khoảng cách xa. Ống tiêm dùng một lần bằng nhựa được sản xuất hàng loạt vào năm 1961.

Bút bi, dao cạo râu, bật lửa
Những nhà sản xuất hàng tạp hóa đã biết cách tận dụng triệt để sở thích của người tiêu dùng là không thích dùng lại thứ đã dùng – vừa tiện lợi, vừa hợp vệ sinh. Nhân vật nổi bật nhất của những câu chuyện này là Marcel Bich, người sáng lập ra công ty Bic.

Năm 1945 Bich mua lại một nhà máy nhỏ bị bỏ hoang. Bich và các cộng sự chẳng có máy móc, thiết bị gì và tiền thì cũng chỉ có 5 ngàn franc. Bich quyết định sản xuất những cây bút bi dùng một lần. Quả thật, bút bi là phát minh của Jose Biro, người Hungari thời đó đã sang định cư ở Argentina. Tuy nhiên bút bi của Biro vẫn còn nhiều nhược điểm: giá thành đắt và chỉ viết được theo chiều thẳng đứng. Đầu thập niên 1950 Bich đã sang tận Argentina để cùng với Biro tiếp tục hoàn thiện bút bi. Những cây bút Bic đầu tiên được sản xuất năm 1953 và mỗi tuần bán được 50 ngàn chiếc. Ba năm sau đó mỗi ngày đã bán được 1 triệu chiếc.
Năm 1972 công ty Bic bắt đầu sản xuất bật lửa dùng một lần và cũng không rõ chính xác ai là người phát minh. Theo một giả thiết thì đó là phát minh của công ty Dupont, còn theo một giả thiết khác là của công ty Flaminaire. Năm 1975 Bic tiếp tục tung ra thị trường sản phẩm dao cạo râu, giành thị phần với công ty Gillette.
Hiện nay, mỗi ngày công ty Bic bán ra thị trường thế giới 22 triệu sản phẩm văn phòng (chủ yếu là bút bi), 11 triệu bàn cạo râu và 4 triệu bật lửa ga. Ông chủ Marcel Bich, người không bao giờ vay vốn của ai và không bao giờ trả lời phỏng vấn, mất năm 1994.

Bao cao su
Tên tuổi của người nghĩ ra bao cao su (bao bảo vệ nói chung) không ai rõ. Loại bao bảo vệ như thế đã được người Ai Cập cổ đại sử dụng từ 3000 năm trước Công Nguyên. Thế kỷ XVI một người Italia có tên Gabrielle Fallopius đã làm một loại bao từ sợi lanh và sau đó cho 1100 đàn ông dùng thử thì thấy không người nào trong số họ bị bệnh giang mai. Thời này, loại bao bảo vệ như vậy còn được làm từ ruột hoặc bàng quan của động vật và được sử dụng nhiều lần.
Sau khi Charles Goodyear tìm ra cách lưu hóa cao su vào năm 1840 thì loại bao này được làm từ cao su dẻo. Năm 1921 Alfred Trojan tìm ra cách lưu hóa latex thì bao cao su được sản xuất hàng loạt. Tuy nhiên, thập niên 1940 – 1950 thế kỷ XX bao cao su được sử dụng nhiều lần, chúng được rửa sạch và bảo quản trong những chiếc hộp nhỏ.
Bao cao su sử dụng một lần chỉ phổ biến vào đầu thập niên 1960 nhưng đến cuối thập niên này chúng không mấy phổ biến vì lúc đó người ta đã tìm ra thuốc tránh thai. Đến giữa thập niên 1980 nạn AIDS bùng phát đã làm cho bao cao su dùng một lần trở nên phổ biến. Hiện tại, mỗi năm thế giới sử dụng từ 10 tỷ bao cao su (theo số liệu của tổ chức người tiêu dùng quốc tế (Cоnsumers Internatiоnal) đến 15 tỷ (theo số liệu của nhà sản xuất Condomi – Italia).

Kính áp tròng
Kính áp tròng (contact lens) được coi là phát minh của Leonardo de Vinci từ năm 1508. Tuy vậy nó chỉ được sử dụng trong thực tế vào năm 1887, khi nhà sinh lý học người Thụy Sĩ Adolf Fick làm ra những kính áp tròng cứng đầu tiên. Kính áp tròng mềm phải đợi gần 100 năm sau – năm 1960, và được sản xuất hàng loạt vào năm 1971.

Thế nhưng một cuộc cách mạng quan trọng chỉ xảy ra vào đầu thập niên 1990 khi công ty Jоhnsоn & Jоhnsоn chi 200 triệu đô la để hoàn thiện sản phẩm này. Ngoài ra, một cộng tác viên của công ty Cооper Visiоn, Ron Hamilton cũng đã nghiên cứu công nghệ kính áp tròng dùng một lần và được công ty Baush & Lоmb mua bản quyền năm 1996.
Kính áp tròng được quảng cáo rất hấp dẫn và gây chú ý. Trong bức tranh quảng cáo là một người đẹp macho (đàn ông) bước ra từ chiếc xe Jaguar có ba cô gái đẹp ở trong xe. Người đẹp macho nói: “Tôi yêu họ - và tôi bỏ”. Kính áp tròng dùng một lần rồi bỏ có giá đắt hơn cả kính áp tròng dùng nhiều lần.