Thứ Tư, 19 tháng 9, 2018

Con đường gian nan của trà túi lọc


CON ĐƯỜNG GIAN NAN CỦA TRÀ TÚI LỌC

Cứ mỗi năm những công nghệ mới lại được sinh ra và làm xuất hiện những sản phẩm mới tiện dụng, nhanh chóng và có chất lượng cao. Một trong những phát minh làm thay đổi truyền thống hàng nghìn năm nhưng không làm thay đổi tính chất cũng như thái độ đối với sản phẩm. Đó là trà túi lọc.
Hương vị đặc biệt của trà, sự đa dạng về chủng loại, mùi hương và những chức năng chữa bệnh của chúng đã chinh phục những người hâm mộ khắp nơi trên thế giới. Nhưng trong thời đại ngày nay mấy ai có đủ thời gian để thưởng thức trà theo nghi thức trà đạo mà ngày càng có nhiều người chọn trà túi lọc.
Sự tiến hóa của công nghệ về trà bắt đầu từ thế kỷ XIX, khi người Anh đưa vào sử dụng các nhà máy sản xuất trà và việc sản xuất bằng máy. Điều này dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của cách thức mới làm cho lá chè thành nguyên liệu để làm đồ uống.
Tuy nhiên, sự thay đổi quan trọng đầu tiên với trà xảy ra năm 1904, và không liên quan gì đến các nhà máy – trà túi lọc đầu tiên xuất hiện ở Mỹ. Và điều kỳ lạ này dần dần thay đổi cách sản xuất trà truyền thống. 77 % lượng trà sản xuất ở châu Âu là trà túi lọc, còn ở nước Anh bảo thủ – có đến 93 % dân số dùng trà túi lọc.
Tất cả được bắt đầu như thế này: Năm 1904, thương gia người Mỹ Thomas Sullivan đầu tiên đề xuất một cách uống trà bất thường. Ông bắt đầu gửi cho khách hàng của mình rất nhiều loại trà khác nhau đựng trong những túi lụa. Trong mỗi túi là số lượng lá trà đủ để pha một tách trà. Mục đích của việc gửi trà chào hàng không phải là mong muốn đơn giản hóa trà đạo. Đây chỉ là những thử nghiệm! Nghĩa là khách hàng có thể so sánh các loại trà khác nhau mà không cần phải mua số lượng lớn, và chỉ sau đó mới là sự lựa chọn.
Mấy năm sau đó, công ty trà Teekanne ở Dresden đã áp dụng ý tưởng này và bắt đầu cung cấp trà cho quân đội bằng các bao gạc. Những người lính gọi những gói này “tea-bom”, nghĩa là nếu muốn, bạn có thể uống một tách trà nhanh chóng vào bất cứ lúc nào. Hình thù trà túi lọc như ngày nay do Adolf Rambold nghĩ ra năm 1929. Cũng chính Adolf Rambold  đã sáng chế ra chiếc máy đóng gói trà có tên “Constanta Teepackmaschine”.
Những “túi trà” đầu tiên được làm bằng tay, chỉ đến năm 1929 bắt đầu xuất hiện các túi trà được sản xuất bằng máy. Trong thập niên 1920 kỹ sư người Mỹ Faye Osborne (công ty Dexter) đã đi tìm một loại giấy có thể thay thế cho lụa hay gạc mà không để lại mùi vị riêng. Một hôm ông để ý đến một tờ giấy mỏng, mềm nhưng bền mà người ta dùng để cuốn xì-gà. Biết rằng loại giấy này có xuất xứ từ Nhật, năm 1962 Osborne quyết định làm ra loại giấy như vậy. Đầu tiên ông thử dùng nguyên liệu từ các loại gỗ nhiệt đới, rồi đay, bông nhưng đều không có kết quả. Cuối cùng ông dùng cây chuối abaca (musa textilis) là nguyên liệu mà người ta dùng để làm dây neo thuyền và kết quả là đầy hứa hẹn.
Trong những năm 1929-1931 Osborne đã thử các thành phần hóa học khác nhau, để làm cho tờ giấy xốp hơn mà vẫn giữ được độ bền. Chọn phương pháp tối ưu, ông đã dành nhiều năm nữa để chuyển quy trình phòng thí nghiệm sang việc sản xuất giấy cuộn hàng loạt ở nhà máy.
Trong khi đó thì trà túi đã giành được thị phần tại thị trường Mỹ. Chúng được làm từ vải gạc và các số liệu tự nói nên qui mô của sản phẩm này: thập niên 1930, cả nước Mỹ hàng năm dùng đến 7 triệu mét vải gạc để đóng túi trà. Từ đầu năm 1934 Osborne bắt đầu sản xuất giấy để gói chè bằng công nghiệp và sang năm 1935 loại giấy này còn được dùng để gói thịt và các sản phẩm điện tử. Đến cuối thập niên 1930 túi làm từ giấy đã giành phần thắng so với túi làm bằng vải gạc.
Nhưng kể từ khi xảy ra chiến tranh Thế giới thứ II, chuối abaca (musa textilis) trở thành thứ nguyên liệu chiến lược (thứ cây này chỉ mọc ở Philippin), chính phủ Mỹ không chỉ cấm dùng nguyên liệu này để sản xuất túi trà mà còn trưng thu dự trữ của Osborne cho nhu cầu của Hạm đội. Nhưng nhà phát minh không chịu bó tay, ông tiếp tục nghiên cứu và đến năm 1942 tạo ra một loại giấy mới rất mỏng và bền mà không dùng đến abaca. Hai năm sau đó, ông tìm ra cách “dán” mép túi bằng phương pháp “ép nóng” thay cho cách khâu bằng chỉ trước đó. Hai thành tựu này đã mở rộng đường cho trà túi lọc.
Tuy nhiên phải mất đến nửa thế kỷ để trà túi lọc chinh phục được những người Anh vốn bảo thủ. Bởi vì cái nhãn giấy gắn trên sợi dây xâu vào gói trà vốn làm cho người Anh nghi ngờ với phát minh của người Mỹ. Người Anh cũng không thích kiểu người Mỹ chỉ hãm trà trong nước nóng mà không phải nước sôi.
Công ty Tetley, nhà sản xuất chè lớn ở nước Anh, dùng công nghệ trà túi lọc năm 1953 nhưng được đón nhận không mấy nhiệt tình. Những năm đầu thập niên 1960 trà túi lọc ở Anh chỉ chiếm 3 % nhưng đến năm 1964 thì đã có một sự thay đổi mạnh mẽ trong sở thích của người tiêu dùng. Ngày nay Tetley bán 200 triệu túi trà trong một tuần.

Năm 1950 công ty Teekanne đề xuất đóng gói lá trà trong túi giấy mỏng hai lớp và không dùng keo dán. Điều này đã cải thiện hương vị của túi trà và trà túi lọc bắt đầu phổ biến rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay giấy lọc được đăng ký bản quyền bởi công ty Dexter từ năm 1938. Còn trà túi lọc được đăng ký bản quyền năm 1952 bởi công ty trà Lipton nổi tiếng.
Cần lưu ý đến một lợi thế của trà túi lọc so với trà thường. Trong túi trà lọc người ta thường đóng trà vụn là chủ yếu. Đấy là những vụn từ mép của lá trà. Phần mép này của lá là nơi tập trung chất bổ dưỡng và hương vị nhiều nhất. Bởi thế, những ý kiến cho rằng trà túi lọc thường kém chất lượng hơn trà thường là không có cơ sở.
Ngày nay trà túi lọc được dùng ở mọi quốc gia, kể cả Trung Hoa và Nhật Bản, những nơi mà người ta vốn cho rằng uống trà và sự vội vàng là những thứ không tương hợp, thậm chí xung khắc, vì rằng trà – không chỉ là thức uống mà còn là truyền thống và nghệ thuật. Còn ở Việt Nam thì có lẽ ở quán cà phê nào cũng có trà túi lọc Lipton hoặc Dilmah – là thứ đồ uống được gọi nhiều không kém những đồ uống khác.


NGUỒN GỐC CỦA MỘT SỐ DẤU VÀ KÝ HIỆU

1. Dấu chấm than “!”
Dấu chấm than xuất phát từ note of admiration” (dấu hiệu về sự ngạc nhiên). Theo một giả thuyết về nguồn gốc của nó một từ tiếng Latin biểu thị niềm vui (Io), được viết với chữ “I” trên chữ “o”. Lần đầu tiên dấu chấm than xuất hiện trongSách Giáo Lý” của vua Edward VI in tại London năm 1553.

2. Dấu chấm phẩy “;”
Dấu chấm phẩy;lần đầu tiên được thợ in người Ý, Aldo Pio Manuzio (1450-1515) sử dụng để tách các từ đối lập và các bộ phận độc lập của một câu phức. William Shakespeare đã từng sử dụng dấu chấm phẩy trong các bài sonnets của mình.

3. Dấu ngã hoặc dấu sóng “~”
Đối với người Việt thì dấu này rất quen thuộc, tuy nhiên trong tiếng Việt dấu này chỉ viết ở trên các nguyên âm (thí dụ: lã chã), còn trong hầu hết các ngôn ngữ khác nó thường được viết trên các phụ âm n và m (thí dụ: España) mà trong môn tốc ký từ thời Trung cổ được viết như một đường lượn sóng.


4. Dấu và, cùng “&”
Dấu và “&” được cho là của Marcus Tullius Tiro, người đầy tớ trung thành thư ký của Cicero. Ngay cả sau khi Tiro được tự do, ông vẫn tiếp tục viết văn bản cho Cicero. tới năm 63 trước Công nguyên ông phát minh ra hệ thống chữ viết tắt riêng của mình để tăng tốc độ ghi chép được gọi là “Notæ Tironianæ” (Những ký hiệu Tiro). Tiro, do vậy, được coi là người sáng lập ra môn tốc ký La Mã.

5. Dấu hỏi “?”
Dấu hỏi được tìm thấy trong sách in từ thế kỷ XVI nhưng để biểu thị câu hỏi thì muộn hơn nhiều, chỉ trong thế kỷ XVIII. hiệu “?” xuất phát từ các chữ cái Latin qo (quaestio - tìm kiếm [trả lời]). Ban đầu chữ q được viết trên chữ o, thế rồi sau đó được chuyển thành một ký hiệu như ngày nay.

6. Dấu phần trăm “%”
Từ phần trăm (percent) xuất phát từ tiếng Latin “pro centum. Năm 1685 tại Paris, Mathieu de la Porte xuất bản cuốn sách Hướng dẫn số học thương mại”. Có đôi chỗ trong cuốn sách này nói về phần trăm, được kí hiệu bằng “cto” (rút gọn của “cento”). Tuy nhiên khi đem in thợ xếp chữ nghĩ rằng “cto” là phân số nên xếp thành %. Và thế là kí hiệu này đi vào đời sống.

7. Dấu sao hay hoa thị “*”
Dấu này đã có từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên trong các văn bản ở thư viện Alexandria do nhà ngôn ngữ học cổ đại Aristophanes (Aristophanes of Byzantium) dùng để biểu thị sự chưa rõ ràng.

8. Dấu thăng “#”
Nguyên ngữ chữ viết của tiếng Anh (octothorp, octothorpe, octatherp) là những từ đang gây tranh cãi. Theo một số giả thiết, hiệu này có nguồn gốc từ các bản đồ truyền thống  thời Trung cổ, nơi ký hiệu này là một ngôi làng được bao quanh bởi tám thuở ruộng (vì vậy nên có tên octothorp”). Theo những giả thiết khác, đấy là một ký hiệu vui nhộn do Don Macpherson đưa ra đầu thập niên 1960 xuất phát từ octo (tiếng Latin: octo – nghĩa là tám) nói về tám điểm cuối của ký hiệu này. Còn –thorpe là nói đến Jim  Thorpe (người đoạt huy chương Olympic mà Don Macpherson hâm mộ). Tuy nhiên, Douglas A. Kerr, trong bài viết Các ký tự ASCII “Octatherp” nói rằng octatherp” đã được tạo ra như là một trò đùa của riêng mình, các kỹ sư John Bell Labs Shaak Herbert Utlautom cũng đưa ra ý kiến tương tự.

9. Dấu ngoặc đơn “()”
Dấu ngoặc đơn (ngoặc ôm) xuất hiện năm 1556 trong các công trình của nhà toán học người Ý, Tartaglia. Đồng thời, nhà toán học Ý, Bombelli cũng đã sử dụng như một dấu ngoặc đơn, bắt đầu bằng chữ cái L, còn phần cuối chữ L lộn ngược (năm 1550), cách viết này đã trở thành tổ tiên của dấu “[ ]”. Dấu ngoặc đơn có hình dáng gần như ngày nay do nhà toán học người Pháp, Vièete đề xuất (năm 1593) và được nhà triết học, nhà toán học người Đức Leibniz phổ biến sau đấy.


10. A còng @
Trong cuốn này đã có bài chi tiết về ký hiệu này. Hiện tại chưa ai biết chính xác @ có nguồn gốc từ đâu. Chỉ có những giả thiết. Giả thiết phổ biến nhất là cách viết tắt giới từ “ad” của tiếng Latin thời Trung cổ do nhà ngôn ngữ học Ulman đề xuất. Năm 2000, giáo sư Giorgio Stabile tìm thấy ký hiệu này ở trong một bức thư của nhà buôn Francesco Lapi viết năm 1536.  Năm 2009 nhà sử học Tây Ban Nha, Jorge Romance tìm thấy ký hiệu @ trong bản “Taula de Ariza” được viết năm 1448, nghĩa là khoảng một thế kỷ trước bức thư nói trên.


Những nhà phát minh đánh cắp ý tưởng


NHỮNG NHÀ PHÁT MINH ĐÁNH CẮP Ý TƯỞNG

Galileo Galilei
Nếu ta hỏi một học sinh phổ thông trung học rằng cống hiến đáng kể của Galilei cho khoa học là gì thì chắc chắn câu trả lời sẽ là kính viễn vọng. Trên thực tế Galilei không phải là người đầu tiên phát minh ra kính viễn vọng. Ông là người đánh cắp ý tưởng.
Vậy thì ai là người phát minh ra kính viễn vọng? Đó là nhà bác học người Hà Lan, Hans Lippershey. Ông là người đầu tiên chế tạo ra kính viễn vọng năm 1608 và đã cố gắng để đăng ký phát minh này nhưng không được chấp thuận. Galilei biết thông tin này và năm 1609 đã chế tạo chiếc kính viễn vọng của mình. Cần phải nói rằng độ phóng đại của kính viễn vọng do Galilei chế tạo lớn hơn nhiều so với kính viễn vọng của Hans Lippershey. Và mặc dù Galilee cũng không đăng ký được phát minh này nhưng người thời nay chỉ nhắc đến Galilei mà không biết gì đến Hans Lippershey khi nói về kính viễn vọng.

Thomas Edison
Thomas Edison nổi tiếng là một trong những nhà phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại với 1093 phát minh. Đã đành, ở đời này có thể có người đàn ông đi khắp nơi bắt cóc rất nhiều đứa trẻ đem về nhà mình nuôi. Nhưng như thế không có nghĩa rằng ông là người bố có nhiều con cái nhất. Và cũng không ngoa nếu có ai đó gọi ông là “kẻ ăn cắp chuyên nghiệp”. Những điều này rất đúng với Thomas Edison và đã từng được chứng minh, tuy vậy, ở nhà trường các em học sinh vẫn được dạy rằng điện, phim, bóng đèn dây tóc và vô khối thứ quan trọng khác là phát minh của Thomas Edison. Danh mục những phát minh của Thomas Edison rất dài, ở đây chỉ dừng lại một trong số đó – bóng đèn dây tóc.

Vậy thì ai là người phát minh ra bóng đèn điện? Đó là Jean Foucault, Humphrey Davy và một số người nữa, tuy nhiên, người đầu tiên sáng chế ra bóng đèn dây tóc là nhà phát minh người Đức, Heinrich Goebel. Goebel từng cố thuyết phục Edison mua phát minh của mình nhưng Edison đã từ chối vì không thấy có lợi gì ở phát minh này. Sau khi Goebel chết, Edison đã mua lại phát minh này ở người góa phụ nghèo với giá rẻ hơn nhiều so với giá chào của Goebel. Không chỉ dừng lại ở đây, Edison còn mua phát minh bóng đèn của Joseph Swan, sau Goebel nhưng trước Edison một năm. Thế nhưng bây giờ người ta chỉ dạy cho học sinh rằng bóng đèn là phát minh của Thomas Edison.

Alexander Graham Bell
Người đời coi Bell là người sáng chế ra máy điện thoại. Ông là người thường xuyên tiếp xúc với những người điếc, kể cả mẹ và vợ mình, thành ra, thật khó hiểu một điều: ông sáng chế ra máy điện thoại để làm gì.
Vậy thì ai mới là người sáng chế ra máy điện thoại? Năm 1860 một người Ý tên là Antonio Meucci đã công bố chiếc máy điện thoại do ông nghĩ ra và gọi nó là teletrofono. Chính ông là người đã phát minh ra máy điện thoại. Tuy nhiên, là một người nhập cư nghèo, ông đã không kiếm đâu ra 10 đô la để làm thủ tục đăng ký phát minh của mình. Hai năm sau đó Alexander Graham Bell nhận được bằng phát minh điện thoại, trở thành người nổi tiếng và giàu có. Còn người phát minh đích thực của điện thoại đã chết trong nghèo khổ và vô danh tiếng.

Albert Einstein
Trong tất cả các tài liệu khoa học cũng như các loại từ điển xưa nay đều gọi Albert Einstein là cha đẻ của Thuyết tương đối. Tuy vậy tất cả đều không hẳn đơn giản thế.

Vậy thì ai là người đầu tiên đưa ra Thuyết tương đối? Các nhà khoa học đều biết rằng Jules Henri Poincaré là người đã đưa ra Thuyết tương đối trước Albert Einstein. Tuy nhiên,  Albert Einstein phủ nhận việc tiếp xúc với các công trình khoa học của Poincaré. Trong 30 cuốn sách và 500 bài báo của mình, Einstein không hề nhắc đến tên Poincaré.

Alexander Fleming
Người đời nhớ đến Alexander Fleming khi nói về penicillin và câu chuyện ông đã chữa bệnh viêm phổi cho Winston Churchill. Tuy vậy tất cả không hẳn thế. Thực ra, Winston Churchill không được chữa bằng penicillin và Fleming không phải là người đầu tiên phát minh ra penicillin.
Vậy thì ai là người phát minh ra penicillin? Xác định chính xác điều này không hề dễ nhưng đã từ rất lâu, trước Fleming, các bộ tộc ở Bắc Phi đã từng dùng penicillin để chữa bệnh. Năm 1897 Ernest Duchesne đã dùng mốc penicillum glaucoma để chữa bệnh sốt ban cho heo biển. Tuy vậy, người ta chỉ coi đó là chuyện vớ vẩn nên Ernest Duchesne không được nhận bằng phát minh. 10 năm sau đó Duchesne đã chết vì bệnh sốt này. Sau đó rất lâu Fleming tình cờ tìm ra penicillin và cũng không nghĩ rằng nó sẽ có ích cho ai đó. Các nhà khoa học Howard Florey, Norman Heatley, Andrew Moyer, Ernst Chain đã tiếp tục phát triển phát minh này và làm cho penicillin trở thành loại thuốc như ngày nay.


NHỮNG GIÁ TRỊ MỘT LẦN MUÔN THUỞ

Trà túi lọc, tã lót em bé, bao cao su, ống tiêm, bút bi, hộp quẹt, cốc chén dùng một lần – những thứ này không thể thiếu trong đời sống hiện đại. Vậy mà chúng đã có lịch sử cả… trăm năm. Những thứ dùng một lần xuất hiện từ đầu thế kỷ XX, bùng nổ trong thập niên 1920, khi mà hầu như năm nào cũng có một thứ gì đó mới mẻ xuất hiện. Người tiêu dùng vui mừng không kể xiết. Một nhà văn đã viết rằng những thứ này làm cho con người ta thoát khỏi cuộc sống buồn tẻ và có nhiều thời gian hơn để làm những việc quan trọng khác.

Trà túi lọc
Trà túi lọc ra đời rất ngẫu nhiên. Đấy là vào năm 1904, Thomas Sullivan – nhà kinh doanh trà và cà phê ở New York thường xuyên phải gửi mẫu trà đựng trong hộp sắt cho khách hàng qua đường bưu điện. Sullivan nghĩ rằng nếu đem mẫu trà gói bằng vải thì sẽ tiết kiệm được trọng lượng rất đáng kể. Thế là ông dùng vải muslin và vải lụa để gói mẫu trà gửi cho khách hàng. Sau đấy khách hàng nói rằng họ đã đem cả gói chè như vậy cho vào nước sôi luôn. Vậy là trà túi ra đời từ đó nhưng mãi đến thập niên 1950 thì trà túi lọc mới có hình dáng như bây giờ.
Trà túi lọc được đăng ký bản quyền năm 1952 nhưng không phải do Thomas Sullivan mà là Thomas Lipton – một đối thủ của Sullivan. Chính Lipton là người đã đóng những gói trà vào hộp carton, bên ngoài có trang trí những hình ảnh đẹp mắt. Năm 1897 ông được phong tước hiệp sĩ do những công lao trong việc truyền bá lối sống Anh.

Ly dùng một lần
Ly uống nước, sau là bát đĩa dùng một lần cũng được phát minh vào khoảng thời gian với trà túi lọc. Năm 1908 bác sĩ Alvin Davidson công bố một nghiên cứu về những em học sinh bị chết. Một trong những nguyên nhân dẫn đến cái chết là do sử dụng ly uống nước bằng sắt không hợp vệ sinh. Cũng trong năm đó một sinh viên luật ở Kansas, Hugh Moore đăng bài báo trên tờ The Packer chỉ trích việc mất vệ sinh của chén bát dùng nơi công cộng và kêu gọi dùng “ly an toàn” (safe cup) được xoắn từ bìa carton do chính Moore nghĩ ra.

Moore kêu gọi nhà doanh nghiệp Lawrence Luellen đầu tư để sản xuất loại ly này. Năm 1910 họ đăng ký bản quyền phát minh và thành lập công ty sản xuất ly uống nước cá nhân (Individual Drinking Cup Cоmpany). Sau đó họ sử dụng máy bán hàng tự động và đặt ở các nhà ga cũng như nhiều nơi công cộng khác. Đến năm 1960 chỉ ở Mỹ hàng năm đã bán được 50 triệu đô la loại ly uống nước bằng giấy này.

Tã lót dùng một lần
Ý tưởng tã lót dùng một lần không thành công ngay từ đầu mà sau nhiều lần cải tiến. Người phát minh ra nó là Marion Donovan, phó tổng biên tập tạp chí Vogue, một phụ nữ đông con. Donovan hầu như không có thời gian để giặt tã lót cho đứa con mới sinh nên nghĩ ra cách dùng tấm che bồn tắm cùng mấy miếng cao su làm một loại quần lót cho con nhỏ. Donovan đặt tên cho nó là The Boater (từ boat – thuyền). Sau một số cải tiến, năm 1949 The Boater được bán ở cửa hàng Saka Fifth Avenue nổi tiếng ở New York và có nhiều người mua đến mức bà được trả 1 triệu đô la cho tiền bản quyền.
Nhưng nhà phát minh không chỉ dừng này ở đó mà tiếp tục cải tiến và đăng ký bản quyền vào năm 1951. Gần 10 năm sau đó công ty Prоcter & Gamble mua bản quyền này để sản xuất loại tã lót Pampers. Hiện nay thị trường tã lót dùng một lần của thế giới là khoảng 10 tỷ đô la Mỹ.

Ống tiêm dùng một lần
Dược sĩ, bác sĩ thú y người New Zealand, Colin Murdoch có đến 45 bằng phát minh. Nhưng phát minh đáng kể nhất của ông là ống tiêm dùng một lần. Ý tưởng ống tiêm dùng một lần nảy ra trong đầu Murdoch khi ông đang ngồi trên máy bay năm 1956, khi đó nhà phát minh 27 tuổi. Cũng trong năm này ông nhận được bằng phát minh cho ống tiêm dùng một lần, là dụng cụ ngăn ngừa hiệu quả việc lây nhiễm từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác.
Murdoch cũng sáng chế ra loại súng bắn mũi tiêm chứa thuốc ngủ để bắt những loại thú lớn từ khoảng cách xa. Ống tiêm dùng một lần bằng nhựa được sản xuất hàng loạt vào năm 1961.

Bút bi, dao cạo râu, bật lửa
Những nhà sản xuất hàng tạp hóa đã biết cách tận dụng triệt để sở thích của người tiêu dùng là không thích dùng lại thứ đã dùng – vừa tiện lợi, vừa hợp vệ sinh. Nhân vật nổi bật nhất của những câu chuyện này là Marcel Bich, người sáng lập ra công ty Bic.

Năm 1945 Bich mua lại một nhà máy nhỏ bị bỏ hoang. Bich và các cộng sự chẳng có máy móc, thiết bị gì và tiền thì cũng chỉ có 5 ngàn franc. Bich quyết định sản xuất những cây bút bi dùng một lần. Quả thật, bút bi là phát minh của Jose Biro, người Hungari thời đó đã sang định cư ở Argentina. Tuy nhiên bút bi của Biro vẫn còn nhiều nhược điểm: giá thành đắt và chỉ viết được theo chiều thẳng đứng. Đầu thập niên 1950 Bich đã sang tận Argentina để cùng với Biro tiếp tục hoàn thiện bút bi. Những cây bút Bic đầu tiên được sản xuất năm 1953 và mỗi tuần bán được 50 ngàn chiếc. Ba năm sau đó mỗi ngày đã bán được 1 triệu chiếc.
Năm 1972 công ty Bic bắt đầu sản xuất bật lửa dùng một lần và cũng không rõ chính xác ai là người phát minh. Theo một giả thiết thì đó là phát minh của công ty Dupont, còn theo một giả thiết khác là của công ty Flaminaire. Năm 1975 Bic tiếp tục tung ra thị trường sản phẩm dao cạo râu, giành thị phần với công ty Gillette.
Hiện nay, mỗi ngày công ty Bic bán ra thị trường thế giới 22 triệu sản phẩm văn phòng (chủ yếu là bút bi), 11 triệu bàn cạo râu và 4 triệu bật lửa ga. Ông chủ Marcel Bich, người không bao giờ vay vốn của ai và không bao giờ trả lời phỏng vấn, mất năm 1994.

Bao cao su
Tên tuổi của người nghĩ ra bao cao su (bao bảo vệ nói chung) không ai rõ. Loại bao bảo vệ như thế đã được người Ai Cập cổ đại sử dụng từ 3000 năm trước Công Nguyên. Thế kỷ XVI một người Italia có tên Gabrielle Fallopius đã làm một loại bao từ sợi lanh và sau đó cho 1100 đàn ông dùng thử thì thấy không người nào trong số họ bị bệnh giang mai. Thời này, loại bao bảo vệ như vậy còn được làm từ ruột hoặc bàng quan của động vật và được sử dụng nhiều lần.
Sau khi Charles Goodyear tìm ra cách lưu hóa cao su vào năm 1840 thì loại bao này được làm từ cao su dẻo. Năm 1921 Alfred Trojan tìm ra cách lưu hóa latex thì bao cao su được sản xuất hàng loạt. Tuy nhiên, thập niên 1940 – 1950 thế kỷ XX bao cao su được sử dụng nhiều lần, chúng được rửa sạch và bảo quản trong những chiếc hộp nhỏ.
Bao cao su sử dụng một lần chỉ phổ biến vào đầu thập niên 1960 nhưng đến cuối thập niên này chúng không mấy phổ biến vì lúc đó người ta đã tìm ra thuốc tránh thai. Đến giữa thập niên 1980 nạn AIDS bùng phát đã làm cho bao cao su dùng một lần trở nên phổ biến. Hiện tại, mỗi năm thế giới sử dụng từ 10 tỷ bao cao su (theo số liệu của tổ chức người tiêu dùng quốc tế (Cоnsumers Internatiоnal) đến 15 tỷ (theo số liệu của nhà sản xuất Condomi – Italia).

Kính áp tròng
Kính áp tròng (contact lens) được coi là phát minh của Leonardo de Vinci từ năm 1508. Tuy vậy nó chỉ được sử dụng trong thực tế vào năm 1887, khi nhà sinh lý học người Thụy Sĩ Adolf Fick làm ra những kính áp tròng cứng đầu tiên. Kính áp tròng mềm phải đợi gần 100 năm sau – năm 1960, và được sản xuất hàng loạt vào năm 1971.

Thế nhưng một cuộc cách mạng quan trọng chỉ xảy ra vào đầu thập niên 1990 khi công ty Jоhnsоn & Jоhnsоn chi 200 triệu đô la để hoàn thiện sản phẩm này. Ngoài ra, một cộng tác viên của công ty Cооper Visiоn, Ron Hamilton cũng đã nghiên cứu công nghệ kính áp tròng dùng một lần và được công ty Baush & Lоmb mua bản quyền năm 1996.
Kính áp tròng được quảng cáo rất hấp dẫn và gây chú ý. Trong bức tranh quảng cáo là một người đẹp macho (đàn ông) bước ra từ chiếc xe Jaguar có ba cô gái đẹp ở trong xe. Người đẹp macho nói: “Tôi yêu họ - và tôi bỏ”. Kính áp tròng dùng một lần rồi bỏ có giá đắt hơn cả kính áp tròng dùng nhiều lần. 


Thứ Ba, 18 tháng 9, 2018

Tín hiệu SOS


TÍN HIỆU SOS

Tín hiệu SOS ra đời cách đây hơn 100 năm. Ngày 1 tháng 7 năm 1908 cộng đồng quốc tế phê chuẩn SOS là tín hiệu cầu cứu cấp bách phát bằng vô tuyến điện báo cho các con tàu trên biển.
Mặc dù ngày nay công nghệ đã phát triển rất xa so với ngày đầu nhưng mã Morse ba chấm, ba gạch ngang, ba chấm (...---...) đã cứu được rất nhiều con tàu bị nạn. Theo thời gian, xung quanh ba chữ cái SOS xuất hiện rất nhiều giả thiết giải mã. Một trong những giả thiết phổ biến nhất không thể hiện đúng bản chất của SOS – “Save our Souls” (Hãy cứu hồn chúng tôi). Ngoài ra còn rất nhiều giả thiết khác như: “Save our Ship”, Send out Succour, Save Our Shelby, Shoot Our Ship, Sinking Our Ship, Survivors On Shore”…
SOS – đơn giản là một trật tự vô tình được chọn vì dễ nhớ và dễ nhận bằng thính giác. Ba chữ viết tắt này là một là kiểu diễn giải (backronym) sau khi tín hiệu đã được thông qua. Những cách diễn giải như vậy đã có trước SOS là CQD. Người ta giải mã ba chữ CQD là: “Lại đây nhanh lên – nguy hiểm!” (Come Quick, Danger!), “Lại đây nhanh lên – chìm!” (Come Quick - Drowning!) vv… Tuy vậy, tín hiệu CQD được diễn giải không chính xác, do vậy mà người ta sau đó đã thay bằng SOS: ba chấm, ba gạch, ba chấm.
Một năm sau khi SOS được phê chuẩn, tín hiệu này đã cứu được con tàu Cunard “SS Slavonia” ở quần đảo Azores rất thành công. Tuy nhiên, sự thừa nhận rộng rãi chỉ từ sau vụ tai nạn của tàu “Titanic” năm 1912. Sau khi “Titanic” đâm vào tảng băng trôi, các sĩ quan điện tín trên tàu đã phát tín hiệu cũ CQD cùng tín hiệu mới SOS nhưng các con tàu trong vùng này đã không đếm xỉa đến cả hai tín hiệu này, cho rằng các sĩ quan điện tín của “Titanic” đùa. Jack Philips – sĩ quan điện tín số một của “Titanic” đã chết đuối cùng 1500 người khác. Chỉ sau thảm họa này người ta mới nhận ra một sự thật cay đắng giúp nhận thức tầm quan trọng của một hệ thống tín hiệu thống nhất.


NHỮNG NHÀ PHÁT MINH KHÔNG ĐƯỢC TRẢ XU NÀO

Trong số những người sống trên thế giới này có những người thường xuyên suy nghĩ, phát minh ra cái gì đấy, họ cố gắng làm cho cuộc sống này ngày một hoàn hảo hơn. Những phát minh lớn hoặc bé, vĩ đại hoặc bình thường: từ cách dán chiếc hộp giấy đến những loại thuốc chữa bách bệnh. Có những phát minh làm đổi thay thế giới và có mặt trong mỗi ngôi nhà trên khắp hành tinh. Những người phát minh ra chúng giàu có, họ được hưởng phần trăm từ việc tiêu thụ sản phẩm và luôn chiếm thứ bậc cao trong bảng xếp hạng tỷ phú của tạp chí “Forbes”. Nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Hóa ra vẫn còn nhiều phát minh có qui mô và tầm cỡ đã “cho không, biếu không” cho nhân loại: tác giả của những phát minh này đã quên đăng ký thành quả của mình và cuối cùng họ không được trả một xu nào.

Karaoke
Thật khó hình dung được ngành công nghiệp giải trí nếu thiếu karaoke. Không chỉ là các quán karaoke mà còn ở vô khối các nơi khác, kể cả trong mỗi gia đình. Thật khó tin, nhưng người phát minh ra kỹ thuật cũng như loại hình giải trí này không được trả một xu nào.
Hơn 30 năm trước Daisuke Inoue là nhạc công của một ban nhạc vô danh tiếng thường chơi ở các phòng trà. Các nhạc công cảm thấy thương cho khán giả không biết làm gì mỗi khi họ giải lao. Thế là Inoue nghĩ ra máy karaoke, xóa giọng hát, để lại phần nhạc đệm và đề nghị khán giả mua vui mỗi khi các nhạc công nghỉ uống cà phê hay uống trà. Đấy là vào năm 1971. Khán giả các phòng trà cảm thấy thích thú với kiểu hát này, họ cùng nhau hát đồng ca mỗi khi ban nhạc nghỉ giải lao. Thế rồi ban nhạc đã làm 11 chiếc máy hát loại này, mỗi chiếc bán được 100 yen, nghĩa là khoảng 80 cent. Ba năm sau đó karaoke được các công ty đưa vào sản xuất hàng loạt, còn Inoue vẫn không có ý định đăng ký phát minh của mình. Từ năm 1987, khi đĩa compact xuất hiện thì karaoke phát triển với tốc độ chóng mặt. Ngày nay karaoke là gì thì cả thế giới đều biết nhưng tên tuổi nhà phát minh ra nó không mấy ai biết. Daisuke Inoue không được trả xu nào cho phát minh của mình, mặc dù tạp chí Time từng gọi ông là một trong những người có ảnh hưởng nhất của châu Á và năm 2004 ông được trao giải IgNobel vì “đã tạo ra một thiết bị giúp con người biết chịu đựng nhau”. Hiện tại ông sống cùng vợ và hai đứa con, buôn những mặt hàng do ông sáng chế ra: thuốc diệt gián cho máy karaoke và cả thiết bị điện phân nước cho máy giặt, máy rửa chén bát không dùng bột giặt hay hóa chất. Thái độ của ông đối với lễ khải hoàn không thành, đối với sự đánh mất tiền dòng bạc chảy là bàng quan và chịu đựng – đức tính của những người theo trường phái khắc kỷ. Ông nói rằng ông từng hát với chiếc máy do mình phát minh ra chỉ 4 hay 5 lần gì đó trong đời, lần đầu tiên là trong dịp sinh nhật 59 tuổi. “Đôi khi – ông tâm sự – tôi ngắm nhìn chiếc máy hát karaoke hiện đại và nghĩ: “Nó mới tuyệt vời làm sao!” nhưng tôi chẳng có liên hệ gì với nó cả”.

Ông vua “chuột máy tính”
Douglas Engelbart, cũng như Daisuke Inoue, có thể nói rằng phát minh của ông được cả thế giới sử dụng. Ông là nhà sáng chế đã nghĩ ra con chuột – tay lái của máy tính – năm 1964. Con chuột ra đời như một sản phẩm phụ của hệ thống oN-Line System (NLS), dùng để điều khiển các “cửa sổ”. Con chuột đầu tiên trông như cái hộp gỗ phía dưới có hai bánh xe (dọc và ngang) và có một nút bấm. Sau đó Bill English và Jeff Rulifson đã cải tiến hình dáng gần giống với con chuột ngày nay, còn hai bánh xe được thay bằng viên bi tròn. Trước thập niên 1980 con chuột còn là một thứ kỳ dị và chỉ trở thành phổ biến sau khi công ty Apple quyết định trang bị nó cho việc sử dụng hệ điều hành mới. Steve Jobs đặt cho công ty Hovey-Kelley Design thiết kế những con chuột chất lượng cao với giá khoảng 20 – 30 đô la. Sau đó con chuột trở thành nguyên nhân thành công của máy tính Macintosh năm 1984. Sự thành công vang dội của hệ điều hành Windows 95 của Microsoft cũng nhờ vai trò vô cùng quan trọng của con chuột.


Thế còn người phát minh? Chắc là cũng giàu như Bill Gates? Hóa ra không phải thế. Năm 1968 Douglas Engelbart được trả 10 ngàn đô la cho phát minh và ông mua được một ngôi nhà nhỏ ở vùng ngoại ô, còn ngày 1 tháng 12 năm 2000 ông được tặng huân chương công nghệ (The National Medal of Technology) cho toàn bộ phát minh trong lĩnh vực công nghệ thông tin, trong đó có con chuột máy tính. Đã đành, người phát minh ra con chuột máy tính không nghèo khổ như “con chuột” nhưng ông đã không thu về hàng triệu, hàng tỷ đô la mà đáng ra ông có được.

Lúc nào cũng uống Coca-Cola

Có lẽ John Pemberton là nhà phát minh thiếu thực tế nhất. Mùa hè năm 1886 ông thử nghiệm một loại nước xi-rô. Thứ nước ép mà ông làm ra, sau khi uống thử thấy được, ông mang ra nhà thuốc Jacobs đ bán cho người sử dụng. Theo hướng dẫn của Pemberton, nhà thuốc pha thứ nước này với nước lã rồi bán với giá 5 cent một ly. Năm đầu tiên bán được 50 đô la trong khi tiền bỏ ra quảng cáo là 79,96 đô la. Năm sau đó hàng bán chạy hơn nhiều nhưng Pemberton không nhìn ra tiềm năng của mình nên đã bán công thức cho công ty Jacobs. Theo tính toán của con cháu ông thì số tiền thu được là 1989 đô la 36 cent. Sau này, như chúng ta đã biết, thứ nước uống do Pemberton làm ra đã mang lại cho những người sở hữu Coca-Cola số lợi nhuận không thể kể hết.
Hiện nay, Coca-Cola là thương hiệu đắt giá nhất hành tinh, được các chuyên gia đánh giá là khoảng 75 tỷ đô la. Thế nhưng trong số những người trở nên giàu có nhờ phát minh của Pemberton không hề có con cháu hoặc những người bà con của ông.

Súng AK-47

Mikhail Kalashnikov, người sáng chế ra súng tiểu liên AK-47 nổi tiếng cũng không hề kiếm được tiền từ phát minh của mình. “Nhà nước lấy hết tất cả” – nhà sáng chế tâm sự. AK-47 là tên viết tắt của “Automat Kalashnikov mẫu năm 1947”, là loại súng tiểu liên phổ biến nhất trên thế giới vì độ tin cậy cao trong điều kiện chiến đấu không tiêu chuẩn và có giá rẻ được quân đội rất nhiều nước sử dụng, trong đó có Việt Nam. Kể từ năm 1947 nước Nga đã bán hơn 100 triệu khẩu súng AK-47 nhưng người sáng chế không được trả xu nào. Gần đây, Kalashnikov ký hợp đồng với một công ty cho phép công ty này sử dụng thương hiệu “Kalashnikov”, đổi lại ông được hưởng 30 % doanh thu từ các mặt hàng sử dụng thương hiệu này. Các mặt hàng mang thương hiệu “Kalashnikov” là ô dù (không phải súng), vợt tennis, lotion dùng sau khi cạo râu và một số loại nước cocktail.

Kính vạn hoa

Kính vạn hoa do nhà bác học người Scotland David Brewster sáng chế ra năm 1816 khi ông làm thí nghiệm về phân cực ánh sáng. Mẫu thiết kế ban đầu được làm từ một cái ống, bên trong đặt cặp gương một đầu, đầu kia đặt một đĩa kính mờ. Brewster đ ý thấy rằng những chuỗi hạt kính ông đặt giữa cùng với gương tạo nên những hoa văn thật diệu kỳ. Những hoa văn này thay đổi theo góc đặt của gương. Xác suất đ thu được hai hình giống nhau là vô cùng bé. Brewster đặt tên cho nó là “kaleidoscopecó gốc từ tiếng Hy Lạp và có nghĩa là “ngắm những hình ảnh đẹp”. Mặc dù Brewster đã đăng ký bản quyền phát minh kính vạn hoa nhưng sau đó ông chẳng thu được đồng nào từ sản phẩm được sản xuất hàng loạt dùng làm đ chơi này. Bản quyền của ông đăng ký chưa đầy đ theo như nhiều người hiểu. Nhiều nhà doanh nghiệp sau đó đã sản xuất hàng trăm ngàn kính vạn hoa thu lợi nhuận cả núi tiền nhưng Brewster không được trả xu nào.

 

Ghim kẹp giấy

Từ thế kỷ 13 con người đã biết cách xếp các tờ giấy vào nhau rồi xâu một sợi dây qua lỗ ở góc phía bên trên. Năm 1835 một bác sĩ ở New York đã làm ra một chiếc máy sản xuất kim găm dùng cho thợ may và dùng để găm giấy. Còn chiếc ghim kẹp giấy đầu tiên là do nhà sáng chế người Na Uy Johan Vaaler nghĩ ra năm 1899. Johan Vaaler không thu được đồng nào từ phát minh này vì ông không làm tìm được nguồn vốn đầu tư hay nhà sản xuất, là điều mà những người Anh (công ty Gem Manufacturing Ltd) đã làm được vào năm 1900. Thật khó hình dung ra khối lượng giấy tờ văn bản ngày nay mà không có ghim kẹp giấy. Và cũng thật khó hình dung ra số tiền mà con cháu của Johan Vaaler có lẽ đã được hưởng nếu ngày đó ông đã đăng ký được phát minh của mình.

Đĩa CD

Đĩa CD thường được coi là phát minh của người Hà Lan (công ty Philips) và người Nhật (công ty Sony). Phát minh này ra đời trong thập niên 1980, thế kỷ XX. Bản quyền của hai công ty nói trên được nhiều nguồn thừa nhận, kể cả bộ bách khoa toàn thư đại chúng phổ biến khắp thế giới như Wikipedia. Tuy nhiên có một giả thiết khác cũng chính xác không kém: đĩa CD do nhà vật lý Mỹ James Russell phát minh từ thập niên 1960, thế kỷ XX. Ông đã thực hiện một ý tưởng có tính bước ngoặt, nghĩ ra một thiết bị không có sự tiếp xúc trực tiếp giữa các thành phần của quá trình thu, phát. Đấy chính là đĩa CD đầu tiên.

Năm 1971 Eli Jacobs thành lập công ty Optical Recording và mời Russell cộng tác để làm đĩa video. Ý tưởng chỉ là để ghi các chương trình truyền hình trên đĩa nhựa rồi gửi theo đường bưu điện cho những người cần xem những chương trình truyền hình mà họ yêu thích vào bất cứ lúc nào. Năm 1974 công ty trưng bày máy ghi và đọc đĩa ở triển lãm ở Chicago, năm 1975 đại diện của công ty Philips thăm phòng thí nghiệm của Russell và nói rằng đĩa này chỉ để lưu dữ liệu chứ không dùng cho video hoặc audio được. Hai tháng sau lần thăm phòng thí nghiệm của Russell, công ty Philips giới thiệu đĩa CD – giống hệt như đĩa của Russell. Sau đấy, không chỉ Philips mà cả Sony và một số công ty khác đã phát triển công nghệ của Russell mà không nhắc gì đến tên ông. Russell cũng không đòi hỏi gì, ông chỉ nói rằng có thể là những người ở các nơi khác nhau cùng nảy ra một ý tưởng trong cùng một lúc, nhưng cuối cùng thì họ cũng đã trả tiền.
Quả thật, Philips và Sony có trả tiền bản quyền cho Viện Battelle Memorial, công ty Optical Recording và ông chủ Eli Jacobs. Năm 1992 Time Warner và một số nhà sản xuất khác kiện công ty Optical Recording ra tòa và cuối cùng họ đã phải trả 30 triệu đô la do vi phạm bản quyền vì tòa cho rằng bản quyền là của Optical Recording. Từ tất cả những số tiền trên James Russell không được một xu nào vì cả 26 bản quyền liên quan đến đĩa CD đều là của công ty Optical Recording.


AI BÊN PHẢI, AI VỀ BÊN TRÁI

Cuộc tranh luận về việc tay lái bên phải hay bên trái xem ra vẫn tiếp tục và chưa có hồi kết. Sự khác nhau trong thiết kế của ô tô đã chia thế giới này ra làm hai phần – tay lái bên phải và tay lái bên trái. Đến thời điểm hiện tại có 66 % dân số thế giới đi về bên phải và 34 % đi về bên trái; 28 % tất cả mọi con đường trên thế gian này đi theo bên trái và 72 % - đi theo bên phải. Người Việt Nam chúng ta xưa nay vẫn đi về bên phải nhưng trên thế giới này còn có hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đi về bên trái. Trong số này có Anh, Ai-len, Nhật, Hồng Công, Macao, Singapore, Indonesia, Brunei, Malaysia, Thái Lan, Úc, New Zealand, Ấn Độ, Pakistan, Nam Phi…
Tuy nhiên, truyền thống đi bên phải hay bên trái đường đã có từ rất lâu trước khi ô tô ra đời. Dưới đây chúng ta thử tìm hiểu tại vì đâu mà có sự phân chia như vậy.
Theo một giả thiết thì việc đi về bên phải đường xuất hiện ở châu Âu từ thời Trung cổ, khi mà trên những con đường nhỏ đi qua những làng quê không phải ô tô mà là những ngưỡi cưỡi ngựa. Tất cả họ đều có trang bị vũ khí. Cánh tay bên trái họ giữ tấm khiên để bảo vệ, phòng khi bị tấn công, bởi thế, họ luôn đi về bên phải. Một giả thiết nữa cho rằng khi những con ngựa kéo xe mà chạy lung tung thì điều khiển chúng về bên phải sẽ dễ dàng hơn, bằng cách dùng tay phải – là cánh tay mà đa số thuận hơn tay trái – để kéo dây cương…
Tuy nhiên, một giả thiết khác lại cho rằng đầu tiên ở châu Âu người ta đi theo bên trái. Chính những người cưỡi ngựa thời Đế chế La Mã luôn đi như vậy vì cánh tay phải sẽ chủ động tấn công người cưỡi ngựa đi ngược chiều. Ngoài ra, đi bên trái sẽ thuận tiện hơn vì bao đựng gươm đeo ở bên trái.
Các nhà sử học cho rằng việc đi bên trái lần đầu xuất hiện ở nước Anh. Anh là quốc đảo nên mọi liên hệ với thế giới chỉ thông qua đường biển. Cục giao thông hàng hải nước này qui định tàu thuyền phải đi về bên trái. Sau đấy, qui tắc này được áp dụng cho cả đường bộ và ảnh hưởng sang tất cả các nước là thuộc địa của Anh. Ngày nay nhiều quốc gia vẫn còn giữ truyền thống này.

Một giả thiết nữa cho rằng sở dĩ người ta đi về bên trái là xuất phát từ việc ngày xưa những chiếc xe ngựa kéo do những người cầm roi ở tay bên phải điều khiển. Nếu đi theo đường bên phải thì nhiều khi họ vung roi quất vào người đi bộ cùng chiều trên đường. Bởi thế, người ta phải đi về bên trái…
Sau khi ô tô ra đời, ở châu Âu liên tục có sự thay đổi bên trái qua bên phải và bên phải qua bên trái. Đa số các nước đi về bên phải nhưng Anh, Thụy Điển và một phần của Đế quốc Áo – Hung lại đi về bên trái. Còn Italia thì mỗi thành phố đi theo mỗi kiểu khác nhau. Tiệp Khắc (Séc và Slovakia) trước đấy thuộc Đế quốc Áo – Hung đi bên trái nhưng đến năm 1938 đổi sang phải. Thụy Điển đổi sang phải năm 1967.
Một số quốc gia khác ở Châu Phi là thuộc địa của Anh nhưng lại giáp với các nước là thuộc địa của Pháp đi bên phải nên cũng thay đổi từ bên trái qua bên phải. Hai miền Nam và Bắc Triều Tiên đổi sang bên phải năm 1946, sau khi thoát khỏi ách thống trị của Nhật.